CỤC BẢO TỒN THIÊN NHIÊN VÀ ĐA DẠNG SINH HỌC
TRUNG TÂM ĐIỀU TRA, THÔNG TIN VÀ DỮ LIỆU VỀ MÔI TRƯỜNG, ĐA DẠNG SINH HỌC
CEBID

Trình Quốc hội dự án Luật bảo vệ môi trường (sửa đổi)

0

Về mục tiêu: Hình thành một đạo luật về BVMT có tính tổng thể, toàn diện, đồng bộ, thống nhất và khả thi; thể chế hóa kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về BVMT, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, bảo đảm tăng cường các biện pháp quản lý, đầu tư cải thiện chất lượng môi trường, ngăn chặn được tình trạng mất cân bằng sinh thái.

Các quan điểm xây dựng dự án Luật
Thứ nhất, BVMT phải được đặt ở vị trí trung tâm của các quyết định phát triển; môi trường không chỉ là không gian sinh tồn của con người, mà còn là điều kiện, nền tảng, yếu tố tiên quyết cho phát triển kinh tế – xã hội bền vững. Không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế; thực hiện sàng lọc, lựa chọn đầu tư phát triển dựa trên các tiêu chí về môi trường. Bảo đảm hài hòa lợi ích, tạo động lực khuyến khích các bên liên quan tích cực tham gia công tác BVMT;
Thứ hai, BVMT phải lấy bảo vệ sức khoẻ Nhân dân làm mục tiêu hàng đầu, bảo đảm mọi người dân đều có quyền được sống trong môi trường trong lành; dựa trên cơ sở phòng ngừa là chính, kết hợp với khắc phục ô nhiễm, suy thoái và cải thiện chất lượng môi trường;
Thứ ba, với vai trò là một đạo luật cơ bản về BVMT, Luật BVMT phải đảm bảo được tính toàn diện, đồng bộ, thống nhất, khắc phục được sự phân tán, chồng chéo, tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho việc định hình chuyển đổi các mô hình kinh tế theo hướng bền vững;
Thứ tư, đổi mới phương thức quản lý từ chú trọng nhiều về thủ tục hành chính sang quản lý theo mục tiêu, kết quả cuối cùng; trong đó thực hiện triệt để việc đơn giản hóa thủ tục hành chính đối với các dự án, cơ sở thân thiện môi trường đồng thời kiểm soát chặt chẽ các dự án, cơ sở có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường; chuyển vai trò trung tâm của Nhà nước sang vai trò trung tâm của doanh nghiệp và người dân trong công tác BVMT.
Các chính sách được sửa đổi, hoàn thiện trong dự thảo Luật
(1) Về bảo vệ các thành phần môi trường: Dự thảo Luật quy định rõ việc cho phép hoạt động xả thải vào nguồn nước phải căn cứ vào khả năng chịu tải của môi trường tiếp nhận; đối với môi trường tiếp nhận không còn khả năng chịu tải thì chỉ cho phép triển khai các dự án không có hoạt động xả nước thải hoặc đã xử lý nước thải đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường về chất lượng nước. Dự thảo cũng quy định riêng một mục về sức khỏe môi trường nhằm nhấn mạnh mối liên quan của ô nhiễm môi trường đến sức khỏe con người, từ đó có giải pháp phòng ngừa, kiểm soát, cảnh báo kịp thời tới người dân. Bổ sung một mục riêng về bảo vệ cảnh quan thiên nhiên và đa dạng sinh học để thể hiện bao quát, đầy đủ bức tranh chung về môi trường, kết nối các thành phần môi trường phục vụ cho công tác QLNN về BVMT.
(2) Về chiến lược BVMT quốc gia, quy hoạch BVMT, đánh giá môi trường chiến lược: Dự thảo Luật quy định rõ việc xây dựng chiến lược BVMT quốc gia làm căn cứ cho việc xác định các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp về BVMT của đất nước trong từng giai đoạn, đồng thời làm cơ sở cho việc xây dựng các quy hoạch BVMT; cụ thể hóa các nội dung về quy hoạch BVMT, phân vùng môi trường để sàng lọc, kiểm soát môi trường đối với các dự án phát triển kinh tế – xã hội; bổ sung các quy định để đảm bảo ĐMC là công cụ sàng lọc hiệu quả về môi trường ngay từ khâu hoạch định chủ trương, chính sách, đề xuất các dự án đầu tư phát triển, gắn việc thẩm định ĐMC vào quá trình xem xét các chủ trương, chính sách và trách nhiệm của người ra quyết định.
(3) Về đánh giá sơ bộ tác động môi trường, đánh giá tác động môi trường, giấy phép môi trường: Để quản lý môi trường trong giai đoạn xem xét, phê duyệt chủ trương đầu tư, dự thảo Luật đã quy định cụ thể về đối tượng, nội dung đánh giá sơ bộ tác động môi trường, trong đó xác định rõ các dự án cần phải đánh giá sơ bộ tác động môi trường (bao gồm các dự án đầu tư công có cấu phần xây dựng, các dự án đầu tư xây dựng thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch UBND cấp tỉnh). Đánh giá sơ bộ tác động môi trường được lồng ghép với quá trình xem xét, chấp thuận chủ trương đầu tư để không làm phát sinh thêm thủ tục hành chính.
Xác lập lại đúng vai trò của ĐTM là công cụ dự báo, phòng ngừa trong giai đoạn chuẩn bị dự án, việc quản lý dự án trong giai đoạn hoạt động được thực hiện bằng giấy phép môi trường. Dự thảo Luật đã giảm đối tượng phải ĐTM, chỉ dự án hạ tầng, sử dụng diện tích đất lớn, tác động lớn đến đa dạng sinh học hoặc có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường trong quá trình hoạt động mới phải thực hiện ĐTM; bãi bỏ quy định về kế hoạch BVMT. Dự thảo Luật đã quy định điều kiện đối với tổ chức lập báo cáo ĐTM để nâng cao chất lượng báo cáo ĐTM; thay thế quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM bằng quyết định phê duyệt kết quả thẩm định báo cáo ĐTM để gắn trách nhiệm của chủ dự án đối với chất lượng báo cáo ĐTM.
Dự thảo Luật đã tích hợp các loại giấy phép mà doanh nghiệp đang phải thực hiện (Giấy phép xả khí thải, giấy phép hành nghề quản lý CTNH, đăng ký chủ nguồn thải CTNH, giấy xác nhận hoàn thành công trình BVMT, giấy chứng nhận đủ điều kiện BVMT trong nhập khẩu phế liệu; giấy phép xả nước thải vào nguồn nước, công trình thủy lợi) vào một giấy phép môi trường nhằm tích hợp các hồ sơ, thủ tục, thời gian thực hiện thủ tục hành chính để giảm bới áp lực cho doanh nghiệp; gắn trình tự thủ tục cấp phép với trình tự thực hiện dự án đầu tư thống nhất với quy định của Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công, Luật Xây dựng. Đối với đối tượng có phát sinh chất thải quy mô nhỏ thì chỉ phải đăng ký môi trường theo hình thức đơn giản, trực tuyến tại UBND cấp xã để có thông tin quản lý nguồn thải, đây không phải là thủ tục hành chính; các đối tượng quy mô hộ gia đình, cá nhân và một số đối tượng khác được miễn giấy phép môi trường, đăng ký môi trường.
(4) Về BVMT trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đô thị, nông thôn, khu vực khác và yêu cầu BVMT trong một số lĩnh vực:Dự thảo Luật quy định rõ nội dung, trách nhiệm về BVMT trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và hoạt động khác trên cơ sở đặc thù theo từng ngành, lĩnh vực như: cụm công nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, làng nghề, nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, y tế, xây dựng, khu công cộng, hộ gia đình,…; trong đó nhấn mạnh các chính sách để phát triển đô thị sinh thái, khu công nghiệp, công trình xanh, phương tiện giao thông thân thiện môi trường, xử lý nước thải tại chỗ đối với dự án, cơ sở quy mô nhỏ, vv.
(5) Về quản lý chất thải và kiểm soát các chất ô nhiễm khác: Dự thảo Luật bổ sung các quy định về phân loại, thu gom, tái chế, xử lý chất thải phát sinh từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và sinh hoạt trong đó quy định rõ tổ chức, cá nhân có trách nhiệm phân loại CTR công nghiệp thông thường và CTR sinh hoạt tại nguồn để thuận lợi cho việc tái sử dụng, tái chế, thu hồi năng lượng và xử lý. Khuyến khích áp dụng công nghệ thân thiện môi trường, xử lý chất thải kết hợp thu hồi năng lượng,…; việc tái sử dụng, tái chế chất thải nhựa phục vụ cho hoạt động sản xuất hàng hóa, vật liệu xây dựng, công trình giao thông nhằm thúc đẩy thị trường tái chế, xử lý chất thải.
(6) Về ứng phó với biến đổi khí hậu: Dự thảo Luật quy định rõ hai nội dung quan trọng là thích ứng với biến đổi khí hậu (BĐKH) và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính; trách nhiệm các cơ quan trong ứng phó với BĐKH. Đặc biệt là việc bổ sung quy định về hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ các-bon trong nước, cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ các-bon quốc tế, thuế các-bon để phù hợp và đáp ứng yêu cầu hội nhập và các điều ước quốc tế.
(7) Về quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn môi trường: Dự thảo Luật quy định rõ nguyên tắc hội nhập quốc tế trong xây dựng quy chuẩn kỹ thuật môi trường; đối với trường hợp chưa có quy chuẩn kỹ thuật môi trường thì cho phép áp dụng tiêu chuẩn về BVMT của các nước phát triển. Lần đầu tiên, dự thảo Luật quy định về áp dụng công nghệ tốt nhất hiện có nhằm làm cơ sở xây dựng và áp dụng tại Việt Nam, góp phần chủ động phòng ngừa ô nhiễm môi trường. Khuyến khích các địa phương ban hành quy chuẩn kỹ thuật môi trường nghiêm ngặt hơn của quốc gia để đáp ứng yêu cầu đặc thù của địa phương.
(8) Về quan trắc, thông tin, cơ sở dữ liệu, báo cáo môi trường: Dự thảo Luật quy định rõ trách nhiệm quan trắc tuân thủ của doanh nghiệp; trách nhiệm quan trắc môi trường nền và quan trắc tác động của Nhà nước. Theo đó, đối với các cơ sở có nguồn thải quy mô lớn, nguy cơ gây ô nhiễm môi trường phải quan trắc chất thải tự động, liên tục; các cơ sở tuân thủ tốt quy định về BVMT không phải quan trắc chất thải định kỳ.
Đối với quan trắc chất lượng môi trường nền, chất lượng môi trường tác động, dự thảo Luật quy định việc thiết lập và vận hành hệ thống quan trắc môi trường, trách nhiệm cụ thể của các Bộ, ngành nhằm huy động tối đa cơ sở vật chất và nhân lực hiện có của các ngành.
Dự thảo Luật quy định về cơ sở dữ liệu môi trường đối với các nguồn thải, dữ liệu quan trắc, đa dạng sinh học, hồ sơ TTHC về môi trường,… phải được tích hợp trong hệ thống thông tin môi trường; giải quyết hồ sơ thông qua điện tử, trực tuyến và có liên thông với hệ thống thông tin môi trường nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và cải cách TTHC. Lần đầu tiên quy định các chỉ tiêu thống kê quốc gia về môi trường để thống nhất với hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc, đáp ứng yêu cầu hội nhập và việc thực hiện các cam kết của Việt Nam về phát triển bền vững.
(9) Về phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường và bồi thường thiệt hại về môi trường: Trên thực tế có nhiều loại sự cố dẫn đến ô nhiễm môi trường và đang được quy định tại nhiều văn bản luật khác nhau. Dự thảo Luật đã quy định sự cố tác động trực tiếp đến môi trường là sự cố chất thải; làm rõ trách nhiệm các bên có liên quan trong từng giai đoạn phòng ngừa, ứng phó và khắc phục sự cố; cơ chế phối hợp và trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong công bố sự cố theo từng cấp độ.
 Về bồi thường thiệt hại môi trường, dự thảo Luật quy định rõ nguyên tắc xác định thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường thông qua việc xác định phạm vi, giới hạn môi trường bị suy giảm chức năng, tính hữu ích và việc xác định các thành phần môi trường bị suy giảm để làm căn cứ giao Chính phủ quy định chi tiết phương thức tính toán thiệt hại môi trường. Quy định trách nhiệm yêu cầu bồi thường thiệt hại về môi trường đối với UBND các cấp và Bộ TN&MT.
(10) Về chính sách và nguồn lực cho BVMT: Dự thảo Luật đã bổ sung nhiều công cụ kinh tế mới để huy động tối đa nguồn lực từ xã hội, các thành phần kinh tế cho BVMT, đồng thời điều tiết hiệu quả các hành vi có lợi cho môi trường; bổ sung một mục riêng quy định các chính sách để hình thành các mô hình tăng trưởng bền vững. Trong đó, bổ sung, hoàn thiện các quy định về thuế, phí BVMT, cơ chế đặt cọc – hoàn trả, ký quỹ, trách nhiệm tái chế của tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu, bồi hoàn đa dạng sinh học…nhằm thay đổi, điều chỉnh hành vi sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng theo hướng giảm thiểu chất thải, hạn chế các hoạt động gây tác động xấu đến môi trường; hình thành thị trường phát thải, tín dụng xanh, trái phiếu xanh, mua sắm xanh, đầu tư theo hình thức PPP để thu hút nguồn vốn trong và ngoài nước đầu tư cho các hoạt động, dự án BVMT. Dự thảo Luật đã quy định ngân sách nhà nước cần có mục chi riêng cho hoạt động sự nghiệp môi trường và tăng chi để bảo đảm mức chi tối thiểu 02% tổng chi ngân sách nhà nước theo yêu cầu BVMT và điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước từng giai đoạn và mục chi riêng cho hoạt động đầu tư phát triển BVMT. Quy định các chính sách để đẩy mạnh phát triển các mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế ít phát thải các-bon.
(11) Về hội nhập, hợp tác quốc tế về BVMT: Nhằm khắc phục những bất cập của nội dung hợp tác quốc tế về BVMT trong Luật BVMT 2014 (chỉ quy định việc ký kết, gia nhập điều ước quốc tế về môi trường; BVMT trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng hợp tác quốc tế về BVMT), dự thảo Luật đã thay đổi toàn diện nội dung hội nhập, hợp tác quốc tế về BVMT, trong đó: khẳng định nguyên tắc trong hội nhập quốc tế và hợp tác quốc tế về BVMT phải phù hợp với đường lối, chính sách đối ngoại của Việt Nam; làm rõ trách nhiệm của Nhà nước và tổ chức, cá nhân trong hội nhập quốc tế và hợp tác quốc tế về BVMT, trong đó Nhà nước phải đảm bảo về nguồn lực và thực hiện đầy đủ cam kết trong điều ước quốc tế và trong tổ chức quốc tế liên quan mà Việt Nam là thành viên khi tham gia hội nhập quốc tế về BVMT; giao Bộ TN&MT giám sát, báo cáo tình hình hội nhập quốc tế và hợp tác quốc tế về BVMT. Đồng thời, đã cụ thể hóa việc thực hiện cam kết quốc tế về BĐKH và bảo vệ tầng ô-dôn.
(12) Về quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức xã hội và cộng đồng dân cư trong BVMT: Dự thảo Luật đã quy định rõ quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội và cộng đồng dân cư trong BVMT và điều kiện tham gia hoạt động BVMT nhằm huy động hiệu quả hơn các tổ chức, cá nhân tham gia BVMT; đặc biệt, dự thảo Luật quy định tổ chức chính trị – xã hội có trách nhiệm tư vấn, hướng dẫn, đại diện cho đoàn viên, hội viên, cộng đồng dân cư và nhân dân trên địa bàn chịu tác động môi trường của cơ sở để khởi kiện hoặc tự mình khởi kiện vì lợi ích công cộng yêu cầu bồi thường thiệt hại môi trường do hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ gây ra.
(13) Về trách nhiệm QLNN về BVMT: Dự thảo Luật cụ thể hóa trách nhiệm QLNN về BVMT của Chính phủ, đảm bảo vai trò thống nhất tham mưu của Bộ TN&MT thông qua việc thực hiện các nội dung, nhiệm vụ mang tính thiết lập khuôn khổ quản lý BVMT trên phạm vi toàn quốc (chính sách, pháp luật; quy chuẩn kỹ thuật; tiêu chí; chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; chương trình, đề án, dự án về BVMT liên vùng, liên tỉnh); trách nhiệm tham gia tổ chức thực hiện pháp luật về BVMT của các Bộ, ngành trong phạm vi quản lý, đảm bảo nguyên tắc một việc chỉ giao một cơ quan chịu trách nhiệm chính; trách nhiệm của UBND các cấp; sửa đổi, bổ sung một số nội dung QLNN về BVMT để bảo đảm bao quát được các hoạt động BVMT hiện hành, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, nâng cao hiệu quả QLNN về BVMT.
(14) Về kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về môi trường: Dự thảo Luật quy định rõ trách nhiệm chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác thanh tra BVMT; quy định tần suất thanh tra để tránh chồng chéo, phiền hà cho doanh nghiệp; bổ sung quy định hoạt động kiểm tra BVMT của lực lượng cảnh sát môi trường để tránh chồng chéo; tăng thời hiệu, mức phạt tiền, bổ sung biện pháp xử lý hành chính trong xử lý vi phạm nhằm bảo đảm tính răn đe và nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác BVMT.
Nguồn Monre.gov.vn
Chi sẻ.

Đã đóng bình luận.