Trước những bất cập trong việc xử lý rác thải nông thôn, trao đổi với Phóng viên (PV) Báo Tài nguyên và Môi trường (TN&MT), ông Nguyễn Thượng Hiền – Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường khuyến nghị: Các địa phương không đầu tư xây dựng các lò đốt rác cỡ nhỏ cấp thôn, xã, cần hướng đến việc xử lý rác liên xã, liên huyện để đảm bảo môi trường.
PV: Thưa ông, những hình ảnh trong phóng sự của VTV24 về việc xử lý rác ở xã Đoan Hùng, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình đã phản ánh một phần của thực trạng xử lý rác thải nông thôn hiện nay còn nhiều bất cập. Ông đánh giá như thế nào về hiện trạng này?
Ông Nguyễn Thượng Hiền:
Thực tế cho thấy, vấn đề xử lý rác thải ở nông thôn đang gặp nhiều bất cập, cụ thể như sau:
Thứ nhất là về vấn đề về quy hoạch, việc quy hoạch không hợp lý đã dẫn đến tình trạng mỗi xã có một lò đốt chất thải, hay những bãi chôn lấp chôn lấp chất thải không đảm bảo yêu cầu kỹ thuật vẫn phát sinh.
Thứ hai là việc đầu tư trong công tác quản lý chất thải nói chung, trong đó có việc đầu tư cho việc thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải sinh hoạt nông thôn chưa được quan tâm đúng mức.
Thứ ba là khó khăn trong việc lựa chọn công nghệ xử lý phù hợp với điều kiện, đặc điểm kinh tế xã hội từng địa phương, đặc điểm điều kiện tự nhiên của từng vùng miền. Hiện nay, khoảng 71% chất thải rắn sinh hoạt vẫn chủ yếu được xử lý theo hình thức chôn lấp, chỉ 16% được xử lý tại các nhà máy chế biến sản xuất phân compost và 13% được xử lý bằng phương pháp đốt, đốt kết hợp với thu hồi năng lượng.
Riêng đối với việc xử lý chất thải rắn bằng phương pháp đốt hiện nay có tình trạng ở một số địa phương đầu tư xây dựng các lò đốt ở quy mô cấp xã. Trong số đó có nhiều lò đốt không đáp ứng yêu cầu tại Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 61: 2016/BTNMT về lò đốt chất thải rắn sinh hoạt (công suất còn nhỏ hơn 300 kg/h, hệ thống xử lý khí thải không có hoặc có nhưng không đạt yêu cầu…), trong khi một số lò đốt mặc dù đáp ứng yêu cầu theo QCVN 61: 2016/BTNMT nhưng khi áp dụng thì trình độ vận hành của các công nhân còn yếu kém, không tuân thủ các yêu cầu kỹ thuật (như nhiệt độ cháy theo yêu cầu hoặc vận hành hệ thống xử lý khí thải) nên không đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường. Việc này dẫn đến khả năng không kiểm soát được chất thải thứ cấp phát sinh, đặc biệt là đối với Dioxin/Furan, đồng thời không phù hợp với mục tiêu xây dựng các khu xử lý chất thải tập trung.
Trước bất cập này, từ năm 2015, Bộ TN&MT đã có văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ khuyến cáo về việc hạn chế đầu tư các lò đốt nhỏ quy mô cấp xã. Sau đó, Chính phủ đã có văn bản chỉ đạo các địa phương hạn chế việc đầu tư các lò đốt chất thải cấp thôn, xã này. Đến năm 2016, Bộ TN&MT đã ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về lò đốt chất thải rắn sinh hoạt (QCVN 61-MT:2016/BTNMT), có hiệu lực từ ngày 1/5/2016. Theo đó, trong thời hạn 6 tháng (đến cuối năm 2016), các địa phương phải cải tạo nâng cấp các lò đốt chất thải rác sinh hoạt đảm bảo khí thải sau xử lý đạt quy chuẩn cho phép; trong lộ trình 3 năm (từ 1/5/2016 – 1/5/2019) phải đáp ứng toàn bộ các yêu cầu kỹ thuật cơ bản đối với lò đốt chất thải rắn sinh hoạt; các địa phương không được đầu tư mới các lò đốt cỡ nhỏ cấp xã dưới 300kg/h kể từ ngày 1/5/2016; xây dựng cơ sở xử lý chất thải tập trung (xử lý các chất thải nông thôn liên xã, liên huyện) với công nghệ tiên tiến, hạn chế chôn lấp.
Vấn đề thứ tư là việc tổ chức thực hiện phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn chưa được thực hiện có hiệu quả, dẫn đến chất thải rắn sinh hoạt khu vực nông thôn cần phải xử lý tăng về khối lượng; mặc dù một số địa phương đã có một số mô hình đã và được triển khai, tuy nhiên đến nay chưa có đánh giá và đúc kết kinh nghiệm để nhân rộng ra cho các địa phương có điều kiện tương tự.
PV: Trước những bất cập đó, công tác quản lý ở cấp Trung ương sẽ có sự chuyển biến như thế nào để giải “bài toán” rác thải ở nông thôn hiện nay, thưa ông?
Ông Nguyễn Thượng Hiền:
Trước bất cập thực tế đối với rác thải sinh hoạt nói chung, trong đó có vấn đề xử lý rác thải nông thôn, ngày 03/02/2019, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 09/NQ-CP giao Bộ TN&MT là cơ quan đầu mối, thống nhất quản lý nhà nước về chất thải rắn và Chủ tịch uỷ ban cấp tỉnh chịu trách nhiệm toàn diện về vấn đề rác thải và xử lý rác thải tại địa phương mình.
Về phía Bộ TN&MT, trong thời gian qua, Bộ đã xây dựng Đề án tăng cường năng lực quản lý chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam và Dự thảo Chỉ thị về một số giải pháp cấp bách tăng cường công tác quản lý chất thải rắn để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, ban hành. Việc xây dựng và ban hành Đề án và Chỉ thị này sẽ đưa ra các giải pháp tổng thể, đột phá như: Hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về quản lý chất thải rắn, trong đó, tập trung rà soát, xây dựng, hoàn thiện và lồng ghép các quy hoạch quản lý chất thải rắn vào quy hoạch bảo vệ môi trường quốc gia, quy hoạch tỉnh; xây dựng và hoàn thiện các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật môi trường, định mức kinh tế, kỹ thuật trong việc thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn. Thực hiện thống nhất quản lý Nhà nước từ Trung ương đến địa phương đối với công tác quản lý chất thải rắn; Tăng cường xây dựng và triển khai các hoạt động truyền thông, đào tạo, nâng cao năng lực và nhận thức cộng đồng về quản lý chất thải rắn.
Chúng tôi cũng xây dựng và dự kiến ban hành danh mục công nghệ xử lý chất thải rắn sinh hoạt khuyến cáo áp dụng phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của các địa phương, trong đó chú trọng đến các công nghệ xử lý chất thải đi kèm với các giải pháp giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế và thu hồi năng lượng, hạn chế tối đa lượng chất thải phải chôn lấp.
Đồng thời, để tạo sự chuyển biến thực sự trong công tác quản lý về chất thải rắn, trong dự thảo Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi đang chuẩn bị trình Quốc hội xem xét, chúng tôi cụ thể hóa quan điểm “người gây ô nhiễm phải trả tiền”. Theo đó, người phát sinh ô nhiễm buộc phải đóng góp kinh phí cho Nhà nước theo khối lượng chất thải phát sinh hàng ngày để tăng cường cho việc thu gom xử lý chất thải rắn nói chung và chất thải rắn sinh hoạt nói riêng, đối với chất thải rắn khu vực nông thôn căn cứ vào điều kiện kinh tế-xã hội đặc thù sẽ có các quy định cho phù hợp với thực tế, trong đó một trong những nội dung quan trọng là nâng cao nhận thức của người dân trong việc phân loại chất thải tại nguồn và sự giám sát của cộng đồng của các tổ chức, chính trị- xã hội trong việc thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn nông thôn. Đặc biệt, không khuyến khích đầu tư các cơ sở xử lý xử lý chất thải rắn sinh hoạt ở quy mô cấp xã.
PV: Để rác không còn là mối lo ô nhiễm ở các vùng nông thôn, ông có khuyến nghị gì đối với địa phương?
Ông Nguyễn Thượng Hiền:
Về vấn đề này, Bộ TN&MT và Bộ Xây dựng đã tham mưu Chính phủ ban hành Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 07/05/2018 về việc phê duyệt điều chỉnh Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050, trong đó, có yêu cầu rõ việc đầu tư xây dựng mới cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt ở nông thôn phải đảm bảo tỷ lệ chôn lấp sau xử lý không quá 20%. Các địa phương phải áp dụng các công nghệ tốt, hiện đại, thân thiện với môi trường để xử lý chất thải nông thôn.
Đối với các địa phương, cần rà soát lại các điểm lưu giữ chất thải sinh hoạt nông thôn để đáp ứng yêu cầu về vấn đề xử lý. Trước hết, các địa phương phải rà soát lại các quy hoạch quản lý chất thải hiện có, có kế hoạch, lộ trình để chấm dứt việc đầu tư xử lý chất thải rắn sinh hoạt quy mô cấp xã, khuyến khích việc đầu tư các cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt quy mô liên xã, liên huyện phù hợp với quy hoạch bảo vệ môi trường, quy hoạch tỉnh. Các địa phương, khẩn trương xây dựng kế hoạch cụ thể, lộ trình phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của địa phương để chấm dứt việc sử dụng các lò đốt chất thải rắn sinh hoạt, các khu vực lưu giữ chất thải, các bãi chôn lấp không đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường hiện nay.
Mặt khác, chúng tôi cũng đề nghị các địa phương thực hiện đúng Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về lò đốt chất thải rắn sinh hoạt (QCVN 61-MT:2016/BTNMT). Nếu thực hiện đúng Quy chuẩn này, sẽ không còn tồn tại những lò đốt nhỏ quy mô cấp xã không đảm bảo yêu cầu bảo vệ môi trường. Điều này đồng nghĩa với việc, các địa phương phải đầu tư công nghệ xử lý hiện đại, phù hợp. Việc đầu tư này phải đi kèm với các điều kiện, như đào tạo cán bộ, công nhân biết vận hành lò đốt theo đúng quy trình.
Mặt khác, để hạn chế lượng rác thải bỏ, biến rác trở thành tài nguyên, các địa phương cần tích cực tuyên truyền, vận động người dân thực hiện phân loại rác tại nguồn. Để công tác này phát huy hiệu quả, cần sự vào cuộc tích cực của cả chính quyền, các tổ chức chính trị – xã hội và người dân. Theo đó, cần huy động sự tham gia của các tổ chức chính trị xã hội như hội phụ nữ, hội nông dân, vận động bà con thực hiện nếp sống mới, phân loại rác thải tại nguồn, xả rác đúng nơi quy định, rác thải ra phải được thu gom vận chuyển đến cơ sở có đủ năng lực để xử lý chất thải. Có như vậy, việc xử lý rác mới đạt hiệu qua lâu dài, và rác không còn là một “gánh nặng” môi trường ở mỗi vùng nông thôn.
PV: Trân trọng cảm ơn ông!
Theo baotainguyenmoitruong.vn