CỤC BẢO TỒN THIÊN NHIÊN VÀ ĐA DẠNG SINH HỌC
TRUNG TÂM ĐIỀU TRA, THÔNG TIN VÀ DỮ LIỆU VỀ MÔI TRƯỜNG, ĐA DẠNG SINH HỌC
CEBID

Giải pháp nào để sông Nhuệ – Đáy trong xanh?

0

(TN&MT) – Chất lượng nước sông Nhuệ, sông Đáy có xu hướng giảm gia tăng ô nhiễm, chưa được cải thiện nhiều. Để trả lại màu xanh cho sông Nhuệ – Đáy, vẫn còn nhiều thách thức, khó khăn, do đó, cần những quyết sách mạnh mẽ hơn từ cơ quan quản lý cùng sự đồng thuận, chuyển đổi ý thức, hành động thực chất hơn từ phía doanh nghiệp, người dân.

Các đại biểu tham dự Hội nghị

Sáng ngày 25/12, tại Hà Nội, Ủy ban Bảo vệ môi trường (BVMT) lưu vực sông Nhuệ – Đáy tổ chức Hội nghị Tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện Đề án tổng thể bảo vệ môi trường lưu vực sông Nhuệ – sông Đáy giai đoạn 2008 – 2020 và định hướng quản lý môi trường lưu vực sông Nhuệ – sông Đáy giai đoạn tiếp theo.

Ông Nguyễn Trọng Đông – Chủ tịch Ủy ban BVMT LVS Nhuệ – Đáy, Phó Chủ tịch UBND TP. Hà Nội; ông Võ Tuấn Nhân –Phó Chủ tịch Ủy ban BVMT LVS Nhuệ – Đáy, Thứ trưởng Bộ TN&MT chủ trì Hội nghị. Tham dự có đại diện 7 Bộ, ngành cùng lãnh đạo 5 tỉnh, thành phố thuộc Ủy ban LVS.

Nước sông Đáy tốt hơn nước sông Nhuệ

Theo đánh giá của Ủy ban BVMT LVS Nhuệ – Đáy, thời gian qua, chất lượng nước LVS vẫn chưa được cải thiện rõ rệt. Kết quả quan trắc của Trung tâm quan trắc môi trường miền Bắc (Tổng cục Môi trường) tiến hành quan trắc tại 42 điểm trên LVS cho thấy, năm 2020, trên dòng chính sông Nhuệ, ô nhiễm cục bộ xuất hiện thường xuyên trên đoạn sông Nhuệ chảy qua khu vực nội thành Hà Nội (đoạn từ Phúc La đến điểm Cầu Chiếc). Kết quả quan trắc 5 đợt năm 2020, thông số có tỷ lệ giá trị vượt ngưỡng cao nhất là N-NH4, với 100% số điểm quan trắc vượt ngưỡng ở cả 5 đợt quan trắc, tiếp đó là thông số COD và BOD5 và có giá trị vượt ngưỡng tăng qua các đợt quan trắc.

Ông Nguyễn Trọng Đông – Phó Chủ tịch UBND TP Hà Nội, Chủ tịch Ủy ban BVMT LVS Nhuệ – Đáy phát biểu khai mạc

46% các điểm quan trắc có giá trị WQI ở mức ô nhiễm nặng, cần biện pháp xử lý trong tương lai; 46% các điểm có giá trị WQI ở mức xấu, nước sông chỉ dùng được cho mục đích giao thông thủy. Các điểm có giá trị WQI ở mức xấu và mức ô nhiễm tập trung trên đoạn sông Nhuệ chảy qua Hà Nội (từ điểm Phúc La đến điểm Cống Thần); trong đó các điểm Cầu Tó, Cự Đà luôn ở mức ô nhiễm. Đoạn sông chảy qua địa bàn các huyện Thường Tín, Phú Xuyên cũng bị ô nhiễm nặng. Môi trường nước sông nội thành Hà Nội, đoạn sông Tô Lịch, sông Lừ, sông Sét liên tục ở mức ô nhiễm trong cả 5 đợt quan trắc.

Đối với đoạn sông Đáy qua địa phận Hà Nội, chất lượng nước sông ít biến động qua các đợt quan trắc, duy nhất điểm Ba Thá trong đợt 4, nước sông đạt mức tốt, ở các điểm quan trắc còn lại, nước sông chỉ dung được cho tưới tiêu, giao thông thủy. Đoạn sông Đáy qua Hà Nam, chất lượng nước sông có cải thiện hơn, có thể dung được cho mục đích nuôi trồng thủy sản, cấp nước sinh hoạt (cần biện pháp xử lý).

“Nhìn chung, Môi trường nước LVS Nhuệ – Đáy tại các đoạn sông chảy qua khu vực đô thị, khu vực có các hoạt động sản xuất vẫn tiếp tục bị ô nhiễm chất hữu cơ, chất dinh dưỡng và vi sinh. Chất lượng nước sông Nhuệ luôn ở mức thấp, nhiều đoạn sông nước đã bị ô nhiễm nặng, điển hình là đoạn sông Nhuệ qua địa phận thành phố Hà Nội. Sông Đáy có chất lượng nước tốt hơn sông Nhuệ”, ông Nguyễn Trọng Đông – Chủ tịch Ủy ban BVMT LVS Nhuệ – Đáy nhận định.Về chất lượng nước trên các sông khác thuộc LVS Nhuệ – Đáy: sông Hoàng Long và sông Đào, chất lượng nước sông đạt từ mức trung bình đến tốt, sử dụng được cho mục đích sinh hoạt, nuôi trồng thủy sản, tưới tiêu. Trên sông Châu Giang, các điểm Phủ Lý, Đầm Tái, Cầu Sắt, trong đó có điểm Đầm Tái, chất lượng nước ở mức xấu, thậm chí ô nhiễm nặng, cần biện pháp xử lý.

Nguyên nhân của thực trạng này là do thiếu các giải pháp công trình liên quan thu gom, xử lý nước thải, công nghệ xử lý thải. Một số điểm nóng về ô nhiễm môi trường vẫn còn tồn tại trong nhiều năm qua như khu vực cuối nguồn Sông Nhuệ. Tình trạng ô nhiễm môi trường nước tại khu vực nội thành và ô nhiễm do nước thải công nghiệp, từ các làng nghề vẫn diễn biến phức tạp. Đáng lưu ý, nước thải sinh hoạt thải ra sông Nhuệ – Đáy chiếm tỷ lệ trên 65% tổng lưu lượng nước thải ra sông Nhuệ – Đáy, phần lớn không được xử lý và thải thẳng ra nguồn tiếp nhận và đi vào sông Nhuệ – Đáy.

Chung sức cải thiện, đâu là nỗ lực?

Nhìn nhận lại công tác BVMT LVS Nhuệ – Đáy trong hơn 10 năm vừa qua, Thứ trưởng Bộ TN&MT Võ Tuấn Nhân ghi nhận, việc thực hiện Đề án tổng thể BVMT LVS Nhuệ – Đáy đã đạt được những kết quả tích cực.

Thứ trưởng Bộ TN&MT phát biểu tại Hội nghị

Các Bộ, ngành, địa phương đã chung tay giải quyết các vấn đề ô nhiễm môi trường lưu vực sông liên vùng, liên tỉnh; kiến nghị, đề xuất các hành lang pháp lý trong giải quyết các vấn đề môi trường LVS liên vùng, liên tỉnh; duy trì và cải thiện chất lượng nước lưu vực sông Nhuệ – sông Đáy trong bối cảnh đầu tư và phát triển kinh tế trên lưu vực sông Nhuệ – sông Đáy ngày càng sôi động. Công tác thanh tra, kiểm tra đã đẩy mạnh, tập trung vào các cơ sở có lưu lượng xả thải 200m3/ngày.đêm trở lên. Hầu như đã hoàn thành xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường, ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

Cùng với đó, hệ thống quan trắc và phân tích môi trường nước lưu vực sông Nhuệ – sông Đáy được thiết lập từ Trung ương đến địa phương, thường xuyên theo dõi, giám sát chất lượng nước lưu vực sông Nhuệ – sông Đáy. Công tác điều tra, thống kê nguồn thải, xây dựng cơ sở dữ liệu nguồn thải đang được triển khai đồng bộ trên hầu hết các tỉnh. Các dự án đầu tư mới hoặc nâng cấp hệ thống thoát nước và xử lý nước thải đô thị, rác thải đô thị đã được quan tâm thực hiện…

Tuy nhiên, Thứ trưởng cũng lưu ý, công tác BVMT LVS Nhuệ – Đáy còn gặp khó khăn, bất cập. Sự phối hợp giữa các địa phương trong việc giải quyết các vấn đề môi trường liên vùng, liên tỉnh đã được cải thiện nhưng còn chưa thực sự đồng bộ và hiệu quả, chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Tình trạng ô nhiễm nước sông cục bộ tại khu vực nội thành, nội thị và làng nghề vẫn diễn biến phức tạp như: Ô nhiễm môi trường nước sông Nhuệ – Đáy liên tỉnh giữa thành phố Hà Nội và tỉnh Hà Nam (hàng năm, 10-15 đợt ô nhiễm) và sông Châu Giang (đặc biệt vào mùa khô) sau đó xuống các tỉnh Ninh Bình, Nam Định, gây ảnh hưởng tới sinh hoạt, sản xuất của nhân dân các tỉnh hạ lưu. Các đơn vị sản xuất, kinh doanh hoạt động vi phạm với phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, nhằm đối phó với các cơ quan chức năng. Kinh phí cho sự nghiệp môi trường tại các địa phương nhìn chung đều thấp, trong khi đó yêu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật môi trường đòi hỏi chi phí đầu tư rất lớn.

Cần quyết sách mạnh mẽ, đột phá

Bước sang giai đoạn mới, bối cảnh mới, sự phát triển nhanh của kinh tế – xã hội sẽ tăng thêm sức ép lên môi trường LVS Nhuệ – Đáy, đại diện các Bộ, ngành, địa phương đều thống nhất quan điểm: “Không hy sinh môi trường lấy tăng trưởng kinh tế”.

Quyết liệt hơn trong công tác chỉ đạo điều hành, Thứ trưởng Võ Tuấn Nhân cho rằng, phải kiểm điểm lại các khu công nghiệp cao, khu chế xuất không có công trình xử lý nước thải tập trung. Phải nhìn nhận rõ yếu kém của toàn hệ thống trong việc thu gom và xử lý nước thải sinh hoạt. Trong thời gian tới, sẽ đánh giá sức chịu tải của lưu vực sông, làm cơ sở để khống chế xả thải.

Vừa qua, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã được Quốc hội thông qua và sẽ chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2022. Để Luật được thực thi vào cuộc sống, năm 2021, Bộ TN&MT sẽ xây dựng Nghị định hướng dẫn thi hành Luật, trong đó, có quy định rõ về vấn đề xử lý nước thải, bảo vệ môi trường lưu vực sông. Cùng với đó, năm 2021, Bộ cũng hoàn thành việc lập 3 quy hoạch: quy hoạch môi trường, quy hoạch đa dạng sinh học, quy hoach quan trắc môi trường. Các quy hoạch này sẽ sát với quy hoạch tỉnh, thành phố…Đây cũng là cơ sở để lập quy hoạch từng lưu vực sông; giúp các địa phương xác định được chỉ tiêu, giải pháp nguồn lực thực hiện.

Ông Đỗ Xuân Tuyên – Thứ trưởng Bộ Y tế phát biểu tại Hội nghị

Trong khi đó, theo Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên, để bảo vệ môi trường LVS Nhuệ – Đáy trong giai đoạn tiếp theo, phải đánh giá rõ mục tiêu nào đạt được, chưa đạt được trong giai đoạn vừa qua để đề ra biện pháp cho thời gian tới. Cụ thể, cần hoàn thiện thể chế, có chế tài xử phạt rõ ràng đối với các đối tượng gây ô nhiễm và làm rõ trách nhiệm của người đứng đầu. Các địa phương cần hạn chế tiếp nhận những dự án có nguy cơ gây ô nhiễm; kiểm soát ngay từ đầu đối với việc xây dựng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp…

Định hướng quản lý môi trường lưu vực sông Nhuệ – Đáy giai đoạn mới, Ủy ban BVMT LVS thống nhất việc xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch quản lý chất lượng môi trường nước mặt đối với các sông, hồ liên tỉnh có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế – xã hội, bảo vệ môi trường” được quy định tại Điều 8 và 9 của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, trong đó ưu tiên lưu vực sông Nhuệ – Đáy để thay thế Quyết định số 174/2006/QĐ-TTg ngày 28/7/2006 của Thủ tướng Chính phủ về Đề án tổng thể bảo vệ và phát triển bền vững môi trường sinh thái, cảnh quan lưu vực sông Nhuệ – Đáy đã kết thúc năm 2020.

Toàn cảnh Hội nghị

Cùng với đó, nghiên cứu cơ chế chính sách đặc thù cho lưu vực sông nói chung và lưu vực sông Nhuệ – Đáy nói riêng, như chính sách thu hút, phân bổ nguồn vốn để thực hiện một số nhiệm vụ, dự án về cải thiện chất lượng nước lưu vực sông Nhuệ – Đáy, chính sách hỗ trợ trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng đầu nguồn. Có cơ chế ưu tiên các dự án đầu tư hạ tầng kỹ thuật đối với xử lý nước thải sinh hoạt đô thị và rác thải sinh hoạt, ban hành cơ chế, chính sách tạo điều kiện để doanh nghiệp tiếp cận với nguồn vốn vay ưu đãi để xử lý ô nhiễm trên sông Nhuệ – Đáy.

Đặc biệt, chỉ đạo ưu tiên tập trung vào việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật hệ thống thoát nước, xử lý nước thải đô thị cho các địa phương trên lưu vực sông Nhuệ – Đáy theo hướng hợp tác công – tư, xã hội hoá và địa phương nào gây ô nhiễm chính chịu trách nhiệm chính trong xử lý ô nhiễm lưu vực sông.

Trong các năm 2016-2020, Bộ TN&MT đã phối hợp với 5 tỉnh, thành phố tiến hành triển khai công tác thanh, kiểm tra tại hơn 164 cơ sở, xử phạt vi phạm hành chính với 97 cơ sở, số tiền phạt hơn 19 tỷ đồng. Lực lượng Cảnh sát môi trường trong giai đoạn 2008-2020 đã tiến hành trực tiếp xử lý trên 2000 vụ việc vi phạm, xử phạt gần 43 tỷ đồng.
Cấp tỉnh, thành phốThành phố Hà Nội: từ năm 2015 – 2019, đã thanh, kiểm tra tại 12.907 cơ sở, xử lý vi phạm hành chính 5.530 cơ sở với tổng số tiền phạt gần 76 tỷ đồng. Tỉnh Hòa Bình: từ năm 2015 – 2019 đã thanh tra, kiểm tra 240 cơ sở và xử phạt 41 cơ sở với tổng số tiền xử phạt hơn 1,2 tỷ đồng. Tỉnh Nam Định: từ năm 2008 – 2020 đã thanh tra 1.319 cơ sở; ban hành quyết định xử phạt 673 cơ sở, tổng số tiền xử phạt hơn 16 tỷ đồng. Tỉnh Ninh Bình: từ năm 2008 – 2020, đã thanh tra, kiểm tra 800 cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; ban hành quyết định xử phạt 334 cơ sở với tổng số tiền hơn 14 tỷ đồng. Tỉnh Hà Nam: từ năm 2003 – 2020 đã thanh tra 352 cơ sở; ban hành quyết định xử phạt 209 cơ sở, tổng số tiền xử phạt hơn 5 tỷ đồng.

Chi sẻ.

Đã đóng bình luận.