CỤC BẢO TỒN THIÊN NHIÊN VÀ ĐA DẠNG SINH HỌC
TRUNG TÂM ĐIỀU TRA, THÔNG TIN VÀ DỮ LIỆU VỀ MÔI TRƯỜNG, ĐA DẠNG SINH HỌC
CEBID

Các giải pháp toàn diện về bảo vệ môi trường

0

Còn tồn tại nhiều vấn đề môi trường cần tiếp tục được tập trung giải quyết, xử lý với tổng thể các giải pháp căn cơ, toàn diện.

Mặc dù nhiều vấn đề môi trường đã được xử lý, mức độ gia tăng ô nhiễm môi trường chậm lại, tuy nhiên, còn tồn tại nhiều vấn đề cần tập trung giải quyết, xử lý sau: Ô nhiễm môi trường vẫn còn diễn biến phức tạp, ô nhiễm môi trường không khí đang ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt tại các thành phố lớn như Tp. Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh ô nhiễm có xu hướng gia tăng tại một số thời điểm trong ngày và một số ngày trong năm, nhất là khi có sự kết hợp giữa các yếu tố khí tượng, khí hậu, hiện tượng thời tiết sương mù với sự gia tăng các nguồn phát thải ô nhiễm không khí. Chỉ số chất lượng không khí (AQI) có thời điểm vượt ngưỡng an toàn, nguy hại tới sức khỏe người dân, nhất là bụi mịn PM2.5. Lượng chất thải được thải ra môi trường ngày càng gia tăng, trong khi đó, công tác quản lý rác thải sinh hoạt này còn hạn chế, phần lớn được xử lý theo hình thức chôn lấp, tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt được giảm thiểu hoặc tái chế tại các cơ sở xử lý chưa cao. Nước thải đô thị phát sinh hầu hết chưa qua xử lý, xả ra môi trường gây ô nhiễm nguồn nước mặt trong các đô thị, khu dân cư; hạ tầng thu gom, xử lý chưa đáp ứng yêu cầu. Vẫn còn cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng chưa được xử lý triệt để, một số cơ sở công nghiệp nằm xen lẫn trong khu dân cư chậm được di dời.

Các hạn chế trên do một số nguyên nhân chính đã được Bộ báo cáo tại Báo cáo số 97/BC-BTNMT ngày 30/9/2019, như: quy mô nền kinh tế, dân số ngày càng lớn, mức độ công nghiệp hóa, đô thị hóa ngày càng cao, khai thác tài nguyên, phát sinh các nguồn gây ô nhiễm, chất thải ngày càng lớn; môi trường chịu tác động bởi biến đổi khí hậu, các vấn đề môi trường theo dòng thương mại quốc tế và ô nhiễm xuyên biên giới; ưu tiên cho tăng trưởng kinh tế, thu hút đầu tư bằng mọi giá, xem nhẹ yêu cầu bảo vệ môi trường; ý thức, trách nhiệm bảo vệ môi trường của người dân và doanh nghiệp còn hạn chế; các dự án thuộc loại hình sản xuất có nguy cơ cao gây ô nhiễm môi trường vẫn còn xu hướng đầu tư vào Việt Nam, trong khi năng lực phòng ngừa, ứng phó với các sự cố môi trường của các doanh nghiệp ở một số địa phương còn nhiều bất cập; hệ thống chính sách pháp luật liên quan đến công tác bảo vệ môi trường còn có chồng chéo, bất cập, chưa theo kịp với những diễn biến nhanh của các vấn đề môi trường và yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế. Năng lực quản lý môi trường ở cấp độ quản lý nhà nước và quản trị môi trường của các doanh nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu. Nguồn lực tài chính cho bảo vệ môi trường cả từ ngân sách nhà nước và các doanh nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu; thiếu cơ chế đột phá huy động nguồn lực tài chính cho bảo vệ môi trường.

Trong thời gian tới, Bộ Tài nguyên và Môi trường, các Bộ, ngành và địa phương tiếp tục thực hiện một số giải pháp sau:

Đề xuất sửa đổi, trình Quốc hội ban hành dự án Luật bảo vệ môi trường theo hướng: (1) Thể chế hóa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc bảo đảm cùng với kinh tế, xã hội, các yêu cầu bảo vệ môi trường phải ở vị trí trung tâm của các quyết định phát triển, là điều kiện, nền tảng, yếu tố tiên quyết cho phát triển kinh tế – xã hội bền vững, coi rác thải là tài nguyên, chú trọng khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, góp phần phát triển bền vững đất nước; (2) Đẩy mạnh áp dụng các cơ chế, chính sách mới mang tính đột phá, tạo nền tảng pháp lý cho việc hình thành và phát triển các mô hình tăng trưởng bền vững thông qua việc đẩy mạnh kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế phát thải ít các-bon, áp dụng đầy đủ nguyên tắc “Người gây ô nhiễm môi trường phải trả tiền”, “Người hưởng lợi từ giá trị của môi trường phải chi trả”, phù hợp kinh tế thị trường, đồng thời phải điều chỉnh được mặt trái của kinh tế thị trường. Huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực từ các thành phần kinh tế, xã hội cho công tác bảo vệ môi trường; (3) Khắc phục các chồng chéo, xung đột, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, toàn diện của hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường, bổ sung các quy định mới nhằm tạo môi trường pháp lý đầy đủ, khả thi, thuận lợi cho việc thực hiện các nhiệm vụ liên quan; phát huy vai trò của người dân, doanh nghiệp và cả hệ thống chính trị trong việc tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi trường, từ hoạch định chính sách đến tổ chức, giám sát thực hiện; trong đó doanh nghiệp, người dân phải đóng vai trò trung tâm.

Triển khai quy hoạch bảo vệ môi trường quốc gia; quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học quốc gia làm cơ sở phân vùng, định hướng đầu tư, phát triển các ngành kinh tế, đảm bảo phù hợp với ngưỡng chịu tải của môi trường. Quy hoạch và phát triển mạng lưới quan trắc môi trường quốc gia bảo đảm xây dựng hệ thống quan trắc và cảnh báo chất lượng môi trường đồng bộ, thống nhất từ Trung ương đến địa phương để giám sát chặt chẽ, cảnh báo chất lượng môi trường trên phạm vi cả nước.

Hoàn thiện hệ thống quy chuẩn kỹ thuật môi trường theo định hướng hội nhập quốc tế, học tập kinh nghiệm của các nước tiên tiến nhằm thiết lập các hàng rào kỹ thuật bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

Xây dựng và thực hiện phương án về tổ chức, cán bộ của các cơ quan Trung ương và địa phương để bảo đảm thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về chất thải rắn theo đúng Nghị quyết số 09/NQ-CP ngày 03/02/2019 của Chính phủ. – Hoàn thiện và triển khai có hiệu quả các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường; xây dựng các cơ chế tài chính dựa trên các nguyên lý của kinh tế thị trường để thúc đẩy điều chỉnh, thay đổi hoạt động sản xuất, hành vi tiêu dùng theo hướng thân thiện với môi trường.

Tiếp tục tăng cường cơ chế giám sát về bảo vệ môi trường đối với các dự án, cơ sở sản xuất có nguy cơ gây sự cố, ô nhiễm môi trường; đẩy mạnh hoạt động truyền dữ liệu quan trắc tự động về Bộ Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường; tăng cường cập nhật, chia sẻ, cung cấp số liệu quan trắc, giám sát doanh nghiệp cho các đơn vị quản lý, tổ chức và người dân để theo dõi, giám sát về môi trường.

Tăng cường năng lực quản trị môi trường trong các KCN, CCN, làng nghề; rà soát kiên quyết yêu cầu chủ đầu tư các KCN, CCN xây dựng, vận hành hệ thống xử lý nước thải tập trung, đảm bảo tỷ lệ KCN, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường đạt ít nhất 90%; đẩy nhanh tiến độ xử lý triệt để ô nhiễm môi trường tại 47 làng nghề ô nhiễm đặc biệt nghiêm trọng tại “Đề án tổng thể bảo vệ môi trường làng nghề đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030”; hoàn thành tiến độ xử lý triệt để cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg và Quyết định số 1788/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

Tập trung tổ chức thực hiện Dự án xây dựng hệ thống quan trắc và cảnh báo môi trường biển 04 tỉnh miền Trung.

Tăng cường thanh tra, kiểm tra đột xuất; tổ chức thanh tra, kiểm tra theo loại hình, vùng, để đánh giá đầy đủ, toàn diện, phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm các vi phạm. Tập trung thanh tra, giám sát các dự án lớn, tiềm ẩn nguy cơ xảy ra sự cố, ô nhiễm môi trường như dệt nhuộm, luyện thép, sản xuất hóa chất..; duy trì, phát huy hiệu quả của đường dây nóng tiếp nhận và xử lý thông tin phản ánh, kiến nghị của tổ chức và cá nhân về ô nhiễm môi trường.

Nguồn Monre.gov.vn

Chi sẻ.

Đã đóng bình luận.