CỤC BẢO TỒN THIÊN NHIÊN VÀ ĐA DẠNG SINH HỌC
TRUNG TÂM ĐIỀU TRA, THÔNG TIN VÀ DỮ LIỆU VỀ MÔI TRƯỜNG, ĐA DẠNG SINH HỌC
CEBID

Thứ trưởng Võ Tuấn Nhân kiểm tra Đề án bảo vệ và phát triển môi trường sinh thái lưu vực sông Cầu

0

(TN&MT) – Chiều 2-10, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Võ Tuấn Nhân làm trưởng đoàn kiểm tra của Ủy ban Bảo vệ Môi trường lưu vực sông Cầu (Bộ Tài nguyên và Môi trường) đã làm việc với UBND tỉnh Hải Dương về thực hiện Đề án tổng thể bảo vệ và phát triển bền vững, môi trường sinh thái, cảnh quan lưu vực sông Cầu giai đoạn 2006-2020 và kế hoạch triển khai đề án giai đoạn sau 2020.

Đoàn làm việc với UBND tỉnh.

Đây là cuộc làm việc nhằm đánh giá, tổng kết thực hiện Đề án. Đoàn làm việc với Ủy ban Bảo vệ Môi trường lưu vực sông Cầu có động chí Nguyễn Dương Thái, Chủ tịch UBND tỉnh; lãnh đạo UBND và các sở, ngành liên quan của tỉnh.

Theo UBND tỉnh Hải Dương, sông Cầu hợp lưu với sông Thương, sông Lục Nam, đoạn hợp lưu của ba sông này hợp với sông Đuống chảy vào sông Thái Bình và sông Kinh Thầy (đây là hai nguồn cung cấp nước chính cho sản xuất và sinh hoạt trên địa bàn tỉnh Hải Dương). Là tỉnh nằm cuối lưu vực sông, tuy diện tích thuộc lưu vực sông ít nhưng Hải Dương lại chịu ảnh hưởng rất lớn từ nước thải của các cơ sở sản xuất, kinh doanh ở khu vực thượng lưu và trung lưu.

Thăm và làm việc với Khu công nghiệp Lai Vu.

Diễn biến môi trường trên lưu vực sông Cầu giai đoạn 2016 – 2019, hiện trạng môi trường không khí trên địa bàn tỉnh 05 năm (2016 – 2020). Kết quả quan trắc cho thấy các thông số quan trắc CO, NO2, SO2, O3, CxHy đạt quy chuẩn môi trường cho phép tại tất cả các điểm quan trắc; tại thời điểm quan trắc một số vị trí quan trắc tại khu dân cư, trên một số tuyến đường giao thông, làng nghề và cụm công nghiệp có thông số tiếng ồn, bụi TSP và bụi PM10 vượt quy chuẩn cho phép (QCVN 05:2013/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng môi trường không khí xung quanh và QCVN 26:2010/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về tiếng ồn). Chất lượng môi trường không khí khu vực khu dân cư trên địa bàn tỉnh tại thời điểm quan trắc năm 2018 được cải thiện hơn giảm về số điểm, tần suất và nồng độ thông số bụi vượt QCCP so với các năm 2016, 2017.

Chất lượng môi trường không khí tại 12/13 làng nghề khá tốt, các thông số phân tích (tiếng ồn, CO, NO2, SO2, O3, bụi TSP và bụi PM10) đều đạt QCCP; 1/13 làng nghề là làng nghề gỗ Đông Giao, huyện Cẩm Giàng có nồng độ bụi TSP vượt QCCP từ 1,07 – 1,47 lần và nồng độ bụi PM10 vượt QCCP trong đợt III vượt QCCP 1,05 lần. Nguyên nhân là do hoạt động sản xuất đặc thù của làng nghề có công đoạn bào, đục, đánh bóng, các hộ sản xuất nằm xen kẽ trong khu dân cư, trong khu vực làng nghề có nhiều phương tiện qua lại. Bên cạnh đó, còn có làng nghề trạm khắc dá Dương Nham, phường Phạm Thái (trước đây là xã Phạm Mệnh) có nồng độ bụi TSP vượt QCCP 1,07 lần, chỉ vượt QCCP vào đợt IV năm 2016 và đợt I năm 2017; làng nghề gốm Cậy xã Long Xuyên, huyện Bình Giang có nồng độ bụi TSP vượt QCCP từ 1,17 – 1,3 lần chỉ vượt QCCP.

Về chất lượng môi trường nước sông tự nhiên trên hệ thống sông Thái Bình: Trên dòng chính sông Thái Bình chủ yếu có thông số TSS vượt QCCP từ 1,06-3,68 lần, ô nhiễm TSS cao nhất đo được tại điểm S7 – Sông Thái Bình tại xã Thái Tân, huyện Nam Sách dòng sông có tốc độ dòng chảy lớn và mang nhiều phù sa; các thông số vượt QCCP không thường xuyên: NO2–N tại các đợt quan trắc từ 1,02 – 2,62 lần cao nhất tại thời điểm quan trắcđợt I năm 2017 trên Sông Thái Bình cách sông Cầu Xe 500m, NH4+-N vượt QCCP từ 5 – 5,27 lần tại đợt I và đợt III năm 2016, đợt II năm 2018 và PO43- vượt QCCP 1,4 lần tại đợt III năm 2017.

Trên sông Hương và hệ thống thủy nông Bắc Hưng Hải có nhiều chỉ số vượt QCCP khá cao. Đặc biệt sông Sặt quan trắc tại 05 điểm và sông Cửu An quan trắc tại 06 điểm quan trắc có nhiều thông số vượt QCCP NH4+- N vượt QCCP từ 1,02 đến 19,72 lần, NO2–N vượt QCCP từ 1,04 đến 24,1 lần và PO43–P vượt QCCP từ 1,2 đến 5,83 lần và thông số DO (1,22 – 3,9 mg/l) không đạt quy chuẩn cho phép diễn ra phổ biến trong các đợt quan trắc; thông số COD vượt QCCP từ 1,07 đến 2,43 lần, BOD5 vượt QCCP từ 1,01 đến 1,93 lần và TSS vượt QCCP từ 1,04 đến 1,38 lần diễn ra không thường xuyên. Nồng độ các thông số vượt QCCP cao nhất trong năm 2016 và có xu hướng giảm trong năm 2018 nhưng nồng độ các thông số vẫn ở mức cao và vượt QCCP.

Tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng môi trường nước theo đợt ngày càng tăng trên sông Bắc Hưng Hải. Hệ thống sông Bắc Hưng Hải chảy qua địa bàn 04 tỉnh, thành phố Hà NộiBắc NinhHưng Yên và Hải Dương mà tỉnh Hải Dương được coi như là hạ nguồn của sông Bắc Hưng Hải. Nguyên nhân gây ô nhiễm là do phải tiếp nhận nước thải từ hoạt động sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nước thải sinh hoạt của khu dân cư dọc hai bờ sông và đặc biệt là chất lượng nước sông Cầu Bây đã bị ô nhiễm từ thành phố Hà Nội chảy qua tỉnh Hưng Yên, chảy về tỉnh Hải Dương. Chất lượng nước bị ô nhiễm đã ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn cung cấp nước cho tưới tiêu, nuôi trồng thủy sản, nguồn nước cấp cho các nhà máy cấp nước sinh hoạt và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống sinh hoạt của người dân sinh sống 02 bên bờ sông do nước thải phát sinh mùi khó chịu.

Rác thải sinh hoạt trên địa bàn đối với khu vực nông thôn, hầu hết các bãi chôn lấp rác thải ở khu vực nông thôn trên địa bàn các huyện không đảm bảo yêu cầu về bảo vệ môi trường (khoảng cách an toàn, yêu cầu kỹ thuật,…), chủ yếu là bãi chứa tạm thời; chưa có công nghệ xử lý rác thải nông thôn được áp dụng phù hợp, đảm bảo giải quyết vấn đề ô nhiễm rác thải nông thôn gây ra.

Đối với khu vực đô thị, Thành phố Hải Dương, rác thải sinh hoạt được thu gom và xử lý bằng phương pháp đốt triệt để. Các khu vực đô thị còn lại (các thị trấn của các huyện, các phường của TP Chí Linh và TX Kinh Môn) trên địa bàn tỉnh rác thải hầu hết được đem chôn lấp. Các bãi chôn lấp rác thải ở các thị trấn hầu hết đã đầy, có nguy cơ cao trở thành các điểm gây ô nhiễm môi trường.

Thực hiện Đề án tổng thể bảo vệ và phát triển bền vững, môi trường sinh thái, cảnh quan lưu vực sông Cầu giai đoạn 2006-2020, UBND tỉnh đã hoàn thiện cơ chế chính sách. Trong đó đã ban hành được 30 văn bản, Quyết định, quy định về công tác bảo vệ môi trường trong toàn lưu vực. Tỉnh đã Quy hoạch 06 khu xử lý chất thải rắn tập trung cấp vùng, cấp huyện.

Mạng lưới quan trắc tài nguyên và môi trường trên địa bàn tỉnh Hải Dương được UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 3062/QĐ-UBND ngày 26/11/2015, theo đó, giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020 sẽ thực hiện quan trắc hiện trạng môi trường đất, nước, không khí trên địa bàn tỉnh với tần suất 04 lần/năm (với 170 điểm môi trường nước; 106 điểm môi trường không khí) và 33 điểm môi trường đất (đối với môi trường đất chỉ thực hiện giám sát với tần suất 01 lần/năm).

Phát biểu tại buổi làm việc, Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Dương Thái cho rằng, Hải Dương là tỉnh nằm cuối lưu vực sông, tuy diện tích thuộc lưu vực sông ít nhưng lại chịu ảnh hưởng rất lớn từ nước thải của các cơ sở sản xuất, kinh doanh ở khu vực thượng lưu và trung lưu. Kết quả quan trắc hiện trạng môi trường những năm gần đây cho thấy môi trường nước của sông Cầu khi chảy vào địa phận tỉnh Hải Dương đã có dấu hiệu ô nhiễm, đề nghị Ủy ban Bảo vệ môi trường Lưu vực sông Cầu tiếp tục duy trì hoạt động, tăng cường hơn nữa việc phối hợp nhằm tăng hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước về môi trường giữa các tỉnh nằm trong lưu vực sông để đảm bảo các nguồn xả thải ra lưu vực sông đều được xử lý đạt quy chuẩn môi trường cho phép trước khi xả thải. Hải Dương rất cần phối hợp với các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang và một số tỉnh đầu nguồn để bảo vệ nguồn nước lưu vực sông Cầu trước khi đổ vào sông Thái Bình và sông Kinh Thầy; phối hợp với các tỉnh Hưng Yên, Bắc Ninh và TP Hà Nội để có giải pháp làm sạch hệ thống thủ nông Bắc Hưng Hải. Theo đó tỉnh rất cần chế tài chung của Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường để gìn giữ môi trường chung cho toàn lưu vực.

Qua làm việc với UBND tỉnh Hải Dương, Thứ trưởng Võ Tuấn Nhân cho rằng trong 6 tỉnh lưu vực sống Cầu, Hải Dương là một trong những tỉnh phát triển mạnh về kinh tế công nghiệp, do vậy chịu sức ép và sự tích tụ về môi trường. Thứ trưởng cũng ghi nhận kết quả về công tác bảo vệ môi trường tỉnh Hải Dương trong nhiều năm qua như đã xây dựng hành lang pháp lý… xây dựng quy hoạch xử lý chất thải rắn trên địa bàn toàn tỉnh; xây dựng các nhà máy xử lý rác và 100% chất thải y tế, 85% chất thải nguy hại được thu gom xử lý. Các cơ sở có hệ thống nước thải 1.000 m3/ngày đêm có hệ thống quan trắc tự động…

Thứ trưởng Võ Tuấn Nhân nhấn mạnh: Công tác BVMT Hải Dương cần tiếp tục quan tâm. Các cụm công nghiệp trong tỉnh hầu hết chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Thời gian tới cần đầu tư cơ sở hạ tầng xử lý đồng bộ về xử lý thải. Chỉ cho các doanh nghiệp vào hoạt động khi đã có hệ thống xử lý thải đạt quy chuẩn. Hải Dương có 14 khu đô thị, song mới có một KĐT có hệ thống xử lý nước thải, tỉnh cần từng bước đầu tư hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt của các khu đô thị, khu tập trung đông dân. Đặc biệt cần có giải pháp quyết liệt với hệ thống thủy nông Bắc Hưng Hải, trong đó bao gồm cả nước thải, chất thải sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề, khu đô thị, khu dân cư tập trung. Cần lập đề án, phối hợp với các địa phương thực hiện xử lý quyết liệt tình trạng ô nhiễm môi trường trên toàn hệ thống thủy nông Bắc Hưng Hải. Kiểm soát tốt hệ thống cửa xả thải của các doanh nghiệp trên các tuyến sông. Quản lý, hướng đẫn việc xả thải của các trang trại, các hộ chăn nuôi cá, gia súc, gia cầm.

Sau buổi làm việc với UBND tỉnh, Đoàn kiểm tra Ủy ban Bảo vệ Môi trường lưu vực sông Cầu đã tới thăm Khu công nghiệp Lai Vu, làm việc với Công ty TNHH Dệt Pacific Crystal, đơn vị xây dựng nhà máy xử lý nước thải riêng với lưu lượng xả thải lớn nhất tỉnh 4.500m3/ngày đêm.

Theo baotainguyenmoitruong.vn

Chi sẻ.

Đã đóng bình luận.