CỤC BẢO TỒN THIÊN NHIÊN VÀ ĐA DẠNG SINH HỌC
TRUNG TÂM ĐIỀU TRA, THÔNG TIN VÀ DỮ LIỆU VỀ MÔI TRƯỜNG, ĐA DẠNG SINH HỌC
CEBID

Ngành tài nguyên và môi trường đóng góp trực tiếp cho sự phát triển kinh tế – xã hội đất nước

0

Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng biểu dương và đánh giá cao những kết quả đạt được của ngành tài nguyên và môi trường trong năm 2019. Đồng thời chỉ đạo ngành tài nguyên và môi trường thực hiện 8 nhóm nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2020 và những năm tiếp theo để góp phần thực hiện mục tiêu sớm đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Tại Hội nghị Tổng kết công tác năm 2019, triển khai nhiệm vụ năm 2020 của ngành tài nguyên và môi trường, sáng 27/12, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng nêu rõ: Năm 2019, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, quyết tâm cao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, chúng ta đã đạt được những kết quả rất tích cực và toàn diện trong phát triển kinh tế – xã hội. “Trong thành tích chung của cả nước, có sự đóng góp quan trọng của ngành tài nguyên môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường. Với quyết tâm, trách nhiệm và tinh thần sáng tạo, toàn Ngành đã vượt qua khó khăn, hóa giải các thách thức để có đóng góp trực tiếp cho phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.” – Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng nhấn mạnh.

Theo Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng, trong năm qua, ngành tài nguyên và môi trường đã chủ động, tích cực tham mưu cho Quốc hội, Bộ Chính trị, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành nhiều chủ trương, quyết sách, chính sách pháp luật để khơi thông các điểm nghẽn, thúc đẩy giải phóng các nguồn lực tài nguyên cho mục tiêu bứt phá trong phát triển kinh tế – xã hội, bảo vệ môi trường…

Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng chủ động đề xuất, thúc đẩy việc triển khai các quyết sách có tính hệ thống, chiến lược về ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH), nhất là thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thích ứng với BĐKH.

Đặc biệt, công tác quản lý tài nguyên có nhiều chuyển biến. Các tồn tại hạn chế đang từng bước được khắc phục, nguồn lực tài nguyên đang được phát huy cho phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Trong đó, công tác quản lý Nhà nước về đất đai được tăng cường, phát huy hiệu quả nguồn lực đất đai. Thu ngân sách từ đất trong 11 tháng đầu năm 2019 đã đạt 115,3 nghìn tỷ đồng, bằng 11% thu ngân sách nội địa. Tiềm năng địa chất, khoáng sản đã được chuyển hóa thành nguồn lực và đóng góp cho tăng trưởng chung sau nhiều năm suy giảm liên tục. Tài nguyên nước được quản lý, khai thác, sử dụng chặt chẽ, hiệu quả hơn mang lại nguồn thu lớn…

Cùng với đó, tập trung triển khai Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, giải quyết tháo gỡ các vướng mắc để phát huy tiềm năng lợi thế của các vùng biển, ven biển cho phát triển. Bộ đã xây dựng trình Chính phủ Kế hoạch Tổng thể và Kế hoạch 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa XII về phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và nhiều văn bản quan trọng khác…

Các giải pháp kiểm soát, bảo vệ môi trường được triển khai đạt nhiều kết quả. Đáng chú ý là các giải pháp đồng bộ về quản lý chất thải rắn, BVMT, phòng ngừa, kiểm soát các nguy cơ ô nhiễm để vừa đảm bảo yêu cầu tăng trưởng, vừa bảo vệ môi trường. Bộ đã thiết lập 600 trạm quan trắc môi trường tự động tại các khu công nghiệp, các cơ sở có nguy cơ cao ô nhiễm, kết nối liên tục với 50 Sở Tài nguyên và Môi trường để kiểm soát, giám sát.

Cùng với đó, công tác dự báo khí tượng thủy văn tiếp tục được nâng cao chất lượng, bước đầu đáp ứng được yêu cầu. Đặc biệt là đã dự báo sát, kịp thời các hiện tượng thời tiết cực đoan, trong đó có các cơn bão lớn, góp phần chủ động phòng, tránh, giảm thiểu thiệt hại về người và tài sản.

Thay mặt Thủ tướng Chính phủ, tôi ghi nhận, đánh giá cao và biểu dương tập thể lãnh đạo, công chức, viên chức, người lao động ngành tài nguyên và môi trường nói chung, Bộ Tài nguyên và Môi trường nói riêng đã đoàn kết, nỗ lực khắc phục khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ, góp phần quan trọng phát triển đất nước trong những năm qua, đặc biệt là năm 2019” – Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng nói.

Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng cùng lãnh đạo các Bộ, ngành chụp ảnh lưu niệm

8 nhóm nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2020

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng cũng nêu những tồn tại, thách thức phải đối mặt và giải quyết như: việc quản lý, sử dụng, khai thác các nguồn tài nguyên ở một số địa phương còn để xảy ra tình trạng lãng phí; khiếu kiện về đất đai có giảm nhưng chủ yếu là các vụ việc tồn đọng phức tạp, kéo dài; chất lượng môi trường nước tại một số đoạn trên các lưu vực sông lớn vẫn bị ô nhiễm; lượng chất thải rắn phát sinh tiếp tục gia tăng trung bình 10 – 16%/năm, tỷ lệ được tái sử dụng, tái chế còn thấp…

Để khắc phục những tồn tại đó và cũng chính là để thực hiện mục tiêu sớm đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 12, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng nêu rõ yêu cầu đặt ra với ngành tài nguyên và môi trường trong năm 2020 và những năm tiếp theo là: “Quản lý, khai thác, huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài nguyên cho phát triển đất nước, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường; Kiểm soát chặt chẽ ô nhiễm môi trường, không để xảy ra sự cố môi trường; Chủ động ứng phó với biến đổi cho phát triển bền vững”.

Thống nhất với phương hướng nhiệm vụ, kế hoạch công tác năm 2020, cũng như các giải pháp thực hiện của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng đề nghị ngành tài nguyên và môi trường tập trung thực hiện 8 nhiệm vụ trọng tâm sau:

Một là, hoàn thiện hệ thống chủ trương, cơ chế, chính sách, pháp luật, đảm bảo đồng bộ, minh bạch, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường để khơi thông, giải phóng tối đa và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực cho phát triển. Trong đó trọng tâm là sửa đổi chính sách pháp luật về đất đai; sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường đảm bảo phù hợp với yêu cầu chuyển đổi mô hình tăng trưởng, đưa môi trường cùng với kinh tế – xã hội là ba trụ cột trung tâm của phát triển.

Đồng thời, thực hiện tổng kết, đánh giá Luật Khoáng sản, Luật Tài nguyên nước, Luật Khí tượng thủy văn, Luật Đa dạng sinh học, Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo. Nâng cao hơn nữa hiệu quả phối hợp với các địa phương để kịp thời giải quyết các vấn đề phát sinh từ thực tiễn. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, thực hiện liên thông, đảm bảo thuận lợi cho các thành phần kinh tế tiếp cận nguồn lực tài nguyên.

Hai là, tập trung điều tra, kiểm kê, thống kê các nguồn tài nguyên thiên nhiên; triển khai công tác lập Quy hoạch sử dụng đất, Quy hoạch không gian biển quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và các quy hoạch ngành để trình phê duyệt.

Phải khắc phục được tình trạng thiếu đồng bộ, thiếu khả thi, không sát với thực tiễn. Quy hoạch đất đai cần phải đảm các định hướng lớn của quốc gia như vấn đề an ninh lương thực, môi trường sinh thái, định hình không gian phát triển của đất nước với tầm nhìn dài hạn; kết nối với quy hoạch không gian biển để tạo sự liền mạch, phát huy tiềm năng thế mạnh của biển cho phát triển bền vững, mở cửa hội nhập; phải quản lý tốt không gian ngầm và chiều cao”, Phó Thủ tướng yêu cầu.

Ba là, tập trung trong công tác quản lý tài nguyên đất, tài nguyên nước, khoáng sản và tài nguyên biển. Trong đó, với tài nguyên đất, tập trung triển khai kiểm kê quỹ đất của toàn quốc; hoàn thành dứt điểm việc rà soát, xử lý đất đai của các công ty nông, lâm nghiệp; giải quyết căn bản tình trạng lãng phí, sử dụng đất sai mục đích, vi phạm pháp luật về đất đai; đẩy nhanh tiến độ xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai đa mục tiêu, kết nối liên ngành, thực hiện cung cấp dịch vụ công trực tuyến về đất đai, nâng cao chỉ số tiếp cận đất đai…

Cần kiểm kê, đánh giá hiện trạng tài nguyên nước; tiếp tục đổi mới quản trị tài nguyên nước quốc gia; sớm hoàn thành việc lập Quy hoạch tài nguyên nước quốc gia và các lưu vực sông liên tỉnh; nghiên cứu, đề xuất ngay các giải pháp tổng thể để tăng cường khả năng trữ nước, trước mắt ưu tiên những vùng thường xuyên bị hạn hán, xâm nhập mặn…

Cùng với đó, tập trung nguồn lực để triển khai chiến lược phát triển kinh tế biển; làm tốt công tác quy hoạch phát triển hệ thống hạ tầng, đô thị, du lịch và khu kinh tế, khu công nghiệp vùng bờ kết nối với quy hoạch không gian biển. Quản lý chặt chẽ hành lang bờ biển, bảo vệ các hệ sinh thái biển; ngăn ngừa, giảm lượng rác thải nhựa, kiểm soát ô nhiễm môi trường, nhằm giảm các tác động tiêu cực, gia tăng sức khỏe và khả năng chống chịu của biển…

Tập trung điều tra khoáng sản ở các vùng có nhiều tiềm năng, các khoáng sản chiến lược. Tăng cường quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên khoáng sản theo quy hoạch, bảo đảm hiệu quả, tiết kiệm, đáp ứng nhu cầu phát triển, bảo vệ môi trường. Nghiên cứu, điều tra tai biến địa chất phục vụ quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội, phòng tránh các nguy cơ sạt lở, sụt lún…

Bốn là, hành động quyết liệt để tạo chuyển biến căn bản trong công tác quản lý, bảo vệ với môi trường. Trước hết, phải hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật, tăng cường trách nhiệm bảo vệ môi trường của nhà sản xuất, người gây ô nhiễm; rà soát, hoàn thiện các quy trình, quy chế ứng phó sự cố môi trường để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, đảm bảo khắc phục nhanh, hiệu quả khi có sự cố.

Đồng thời, thiết lập cơ chế sàng lọc dự án từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư, phòng ngừa, giảm thiểu, kiểm soát các nguồn gây ô nhiễm; bảo vệ các khu vực nhạy cảm về môi trường; tập trung xử lý các cơ sở ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, thực hiện di dời các cơ sở sản xuất kinh doanh có nguy cơ ô nhiễm ra khỏi đô thị, khu dân cư; tuyên truyền tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của toàn xã hội về bảo vệ môi trường, xây dựng ý thức bảo vệ môi trường trở thành nếp sống, văn hóa trong cộng đồng dân cư…

Năm là, tiếp tục ưu tiên nguồn lực, tập trung triển khai các giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Cần sớm hiện đại hóa, hoàn thiện hệ thống trạm khí tượng thủy văn, hệ thống cảnh báo thiên tai. Đây phải được coi là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu, Bộ Tài nguyên và Môi trường phải tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương, các tổ chức quốc tế khẩn trương đẩy mạnh hoàn thiện chính sách pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho công tác quản lý nhà nước về biến đổi khí hậu; nghiên cứu, đề xuất được các giải pháp ứng phó hiệu quả phù hợp với điều kiện của từng vùng để thực hiện chuyển đổi cơ cấu sản xuất quy mô lớn, quy hoạch dân cư để thích ứng…

Sáu là, tập trung hoàn thiện hạ tầng không gian địa lý, tích hợp dữ liệu các nền tảng trong ứng dụng thành tựu cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0. Trong đó tập trung xây dựng hạ tầng không gian địa lý, phát triển ngành đo đạc, bản đồ; phát triển hạ tầng không gian quốc gia, áp dụng công nghệ số trong lĩnh vực này; ứng dụng mạnh công nghệ viễn thám trong giám sát và quản lý tài nguyên môi trường.

Bảy là, chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra kịp thời phát hiện và xử lý vi phạm nhằm nâng hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật. Đặc biệt là công tác tiếp dân, đối thoại, giải quyết khiếu nại, tố cáo ở ngay từ cấp cơ sở không để phát sinh thành các điểm nóng phức tạp trong năm diễn ra nhiều sự kiện của đất nước.

Tám là, tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ, khoa học nghiên cứu, công chức, viên chức trong hệ thống ngành tài nguyên và môi trường để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của Ngành.

Bộ trưởng Bộ TN&MT Trần Hồng Hà phát biểu tiếp thu ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng

Tiếp thu ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng, Bộ trưởng Trần Hồng Hà khẳng định Ngành sẽ nghiêm túc nghiên cứu các quy hoạch về đất đai, tài nguyên nước, đặc biệt là luật sửa đổi Luật đất đai, Luật bảo vệ môi trường, giải quyết những vấn đề nóng đặt ra trong quá trình phát triển.

Bộ trưởng Trần Hồng Hà khẳng định: Luật Bảo vệ môi trường sẽ góp phần tháo gỡ cải cách thủ tục hành chính. Bên cạnh đó tạo ra những bộ lọc nâng cao quy chuẩn, tiêu chuẩn môi trường để ngăn chặn những dòng công nghệ, dự án đầu tư lạc hậu; làm tốt công cụ quản lý kinh tế thay cho bằng mệnh lệnh; tập trung vào giải quyết các vấn đề cấp bách hiện nay như vấn đề ô nhiễm không khí, chất thải rác thải sinh hoạt đô thị và nông thôn. Như vậy vấn đề bức xúc nhất sẽ được đặt ra như là xem xét các phương án cụ thể trong vấn đề sửa đổi Luật.

Tiếp tục nâng cao hơn nữa vai trò quản lý nhà nước về lĩnh vực tài nguyên và môi trường, đặc biệt là đất đai, tài nguyên nước, khoáng sản, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. “Đã đến lúc chúng ta cần phải khẳng định vai trò thông qua những tầm nhìn xa hơn, với các quy hoạch chung, bao quát và tổng thể hơn, đồng thời đảm bảo sự tích hợp lồng ghép hài hòa giữa phát triển các lĩnh vực của ngành và giữa vùng, địa phương” – Bộ trưởng nói.

Trong quy hoạch đất đai phải nhìn được toàn bộ định hình phát triển của các nhu cầu phát triển trong xã hội, của các ngành. Trong quy hoạch phải đưa ra không gian định hướng tiếp tục phát triển, nhưng không khai thác quá mức các nguồn lực tài nguyên và có những định hướng quản lý không gian phát triển cho nhiều thế hệ.

Đặc biệt ngành sẽ tập trung xây dựng quy hoạch sử dụng tài nguyên nước, quy hoạch sử dụng không gian biển. Đây là các quy hoạch quan trọng liên quan đến quy hoạch tích hợp không gian, quy hoạch vùng và các quy hoạch ngành khác…

Bộ trưởng mong muốn năm 2020, phát huy những kết quả đạt được, toàn Ngành sẽ tiếp tục đổi mới, sáng tạo, đoàn kết và phát triển. Xuân mới, niềm tin mới, thắng lợi mới!

Cũng tại Hội nghị, Bộ Tài nguyên và Môi trường ra mắt Mạng lưới trạm định vị vệ tinh quốc gia (VNGEONET) nhằm nâng cao chất lượng xác định vị trí, tọa độ, đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa hạ tầng đo đạc và bản đồ cơ bản, cung cấp kịp thời, đầy đủ, chính xác thông tin, dữ liệu đo đạc và bản đồ phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh.​

Theo monre.gov.vn

Chi sẻ.

Đã đóng bình luận.