Gian triển lãm thành tựu về lĩnh vực môi trường nằm trong khuôn khổ Hội nghị Môi trường toàn quốc lần thứ V và Lễ kỷ niệm 20 năm thành lập Bộ TN&MT giới thiệu những kết quả, thành tựu nổi bật trong công tác BVMT ở nước ta trong giai đoạn 2002 đến nay thông qua các tranh ảnh, ấn phẩm, mô hình, thiết bị, sản phẩm minh họa.
Gian triển làm được thiết kế theo 04 Chủ đề thể hiện mục tiêu “Hài hòa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, hướng tới nền kinh tế tuần hoàn, phát triển bền vững”, đó là: Vẻ đẹp Việt Nam; phòng ngừa, kiểm soát ô nhiễm; xử lý chất thải; phát triển sản phẩm thân thiện môi trường, thúc đẩy nền kinh tế tuần hoàn.
Chủ đề vẻ đẹp Việt Nam.
Việt Nam có diện tích khoảng 331.212 km2 (đứng thứ 65 trên thế giới), bờ biển dài hơn 3.260 km với hơn 3.000 đảo lớn nhỏ ven bờ và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, được xem là đất nước có “Vẻ đẹp bất tận”, thuộc top 20 đất nước đẹp nhất thế giới do Tạp chí Du lịch nổi tiếng Rough Guide (Anh) bình chọn; xếp thứ 18 trên toàn cầu về chỉ số đa dạng sinh học cao theo đánh giá của WWF năm 2021).
Đến năm 2021, Việt Nam có 180 khu bảo tồn (rà soát theo quy định của Luật ĐDSH), gồm 34 VQG, 69 khu dự trữ thiên nhiên, 18 khu bảo tồn loài và sinh cảnh, 59 khu bảo vệ cảnh quan; 104 vùng đa dạng sinh học quan trọng, chiếm 10% diện tích mặt đất trên phần lục địa; 06 vùng sinh thái ưu tiên toàn cầu được WWF ghi nhận;
Đặc biệt, nước ta đã được thế giới công nhận: 11 khu Dự trữ sinh quyển thế giới, trở thành quốc gia có số lượng Khu dự trữ sinh quyển thế giới đứng thứ 2 Đông Nam Á, sau Indonesia (19 Khu); 05 khu Di sản thiên nhiên thế giới; 10 Vườn Di sản ASEAN; 9 khu Ramsar.
Bên cạnh đó, tại Việt Nam còn có 63 vùng chim quan trọng toàn cầu; khoảng 62.600 loài sinh vật đã được xác định; 25/44 loài linh trưởng ở khu vực Tiểu vùng sông Mekong mở rộng sinh sống tại Việt Nam; 5/25 loài linh trưởng nguy cấp toàn cầu sinh sống tại Việt Nam (voọc Cát Bà, voọc mông trắng, voọc mũi hếch, chà vá chân xám và vượn mào đen Phương Đông).
***
Những thành tựu, kết quả đạt được của công tác BVMT trong 20 năm qua:
* Chủ trương, chính sách, hành lang pháp lý về BVMT luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo hoàn thiện, bổ sung. Cho đến nay, lĩnh vực bảo vệ môi trường đã có:
02 Nghị quyết của Đảng;
02 Đạo Luật (Bao gồm Luật BVMT 2020, Luật ĐDSH 2008; trong đó giai đoạn từ 2002 đến nay, Luật BVMT đã qua 03 lần sửa đổi để đáp ứng với những đòi hỏi ngày càng cao của thực tiễn phát triển kinh tế xã hội và xu thế quốc tế);
01 Nghị quyết của CP (NQ 35/NQ-CP năm 2013 về một số giải pháp cấp bách về bảo vệ môi trường);
03 Chiến lược, 09 Kế hoạch, 08 Chỉ thị về bảo vệ môi trường và các Chiến lược, Kế hoạch liên quan đến bảo vệ môi trường được Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương ban hành
Các văn bản dưới luật quy định chi tiết, thi hành Luật BVMT, Luật ĐDSH.
13 QCVN, 59 TCVN về môi trường được ban hành trong giai đoạn 2016 – 2022.
* Bên cạnh việc hoàn thiện chính sách, pháp luật, công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về môi trường cũng đã được tiến hành đồng bộ nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi các quy định của pháp luật về BVMT.
Trong giai đoạn 2016 – 2021, Bộ TN&MT đã thanh tra, kiểm tra tại 2.364 cơ sở và khu công nghiệp, xử phạt 878 cơ sở. Kết quả cho thấy tỷ lệ các cơ sở vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường có xu hướng ngày càng giảm.
Từ 2017 – 2021, lực lượng Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường đã kiểm tra, phát hiện 121.654 vụ vi phạm pháp luật về môi trường; khởi tố 1.540 vụ/2.108 đối tượng; xử phạt hành chính 81.439 vụ.
Trong giai đoạn 2019 – 2021, các địa phương đã kiểm tra, thanh tra, phát hiện và xử phạt vi phạm hành chính 13.144 cơ sở.
Qua hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về BVMT, đấu tranh phòng chống tội phạm về môi trường đã góp phần phòng ngừa, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật về BVMT của doanh nghiệp và người dân, đồng thời buộc các doanh nghiệp phải quan tâm, đầu tư cho môi trường, bước đầu đã tạo được dư luận tốt trong cộng đồng.
* Việc tổ chức triển khai thực hiện hệ thống chủ trương, chính sách, pháp luật được thực hiện một cách đồng bộ, quyết liệt, với sự tham gia, vào cuộc của tất cả các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân đã góp phần tạo nên những chuyển biến, kết quả tích cực trong công tác BVMT ở nước ta giai đoạn vừa qua. Điều này được thể hiện thông qua những con số nổi bật như:
Tỷ lệ các KCN, KCX có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường đạt 91%, tăng 30% so với năm 2010.
Tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt đô thị được thu gom, xử lý đạt 96%, tăng 14% so với năm 2010.
Tỷ lệ nước thải sinh hoạt đô thị được xử lý đạt 15%, tăng 8% so với năm 2010.
71 nhà máy/trạm xử lý nước thải đô thị tập trung đã đi vào vận hành với tổng công suất thiết kế 1.383.000 m3/ngày đêm (tăng 41 nhà máy và khoảng 543.000 m3/ngày đêm so với năm 2015).
381 lò đốt chất thải rắn sinh hoạt, 37 dây chuyền chế biên phân compost đã được đầu tư, xây dựng; 02 nhà máy đốt rác phát điện đã đi vào vận hành.
248 trạm quan trắc cố định, tự động môi trường xung quanh, gồm 99 trạm quan trắc môi trường không khí xung quanh; 108 trạm nước mặt; 41 trạm nước dưới đất đã được vận hành, truyền nhận số liệu để phục vụ theo dõi, giám sát.
Đặc biệt, theo đánh giá Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc tại Việt Nam thông qua chỉ số PAPI hàng năm cho thấy, tỷ lệ người dân quan ngại về ô nhiễm môi trường ngày càng giảm trong giai đoạn 2016-2021: từ chiếm tỷ lệ 12,53% trong số các vấn đề quan ngại nhất năm 2016, xuống còn 1,55% năm 2021.
Qua đó, góp phần quan trọng vào sự cải thiện Chỉ số phát triển bền vững của Việt Nam năm 2021: xếp thứ vị trí 51/165 quốc gia và vùng lãnh thổ, tăng 37 bậc so với năm 2016.
***
Các sản phẩm, thiết bị, mô hình theo Chủ đề bảo vệ môi trường.
Chủ đề về phòng ngừa, kiểm soát ô nhiễm:
Nguyên tắc phòng ngừa ô nhiễm được xem là nguyên tắc cơ bản của hoạt động BVMT, với mực đích nhằm chủ động ngăn chặn những rủi ro có thể gây ra ô nhiễm môi trường. Nguyên tắc này được thực hiện thông qua các công cụ quy hoạch, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường.
Thông qua công cụ này, thời gian vừa qua đã có sự điều chỉnh các định hướng phát triển, bố trí không gian phát triển và đầu tư phù hợp hơn về môi trường; hầu hết các dự án đầu tư đã được yêu cầu chỉnh sửa, bổ sung các biện pháp giảm thiểu tác động có hại đến môi trường; đặc biệt đã kiến nghị cấp có thẩm quyền xem xét, dừng triển khai đối với nhiều dự án lớn, có nguy cơ tiềm ẩn đối với môi trường (như Cảng Lạch Huyện, thủy điện Đồng Nai 6 và 6A, dự án khai thác quặng sắt Thạch Khê; v.v…).
Việc kiểm soát ô nhiễm được thực hiện chủ yếu thông qua các công cụ về cấp giấy phép môi trường, quan trắc môi trường.
Luật BVMT năm 2020 đã tích hợp các thủ tục về môi trường được quy định trong Luật BVMT năm 20214, cấp phép xả nước thải vào nguồn nước, cấp phép xả nước thải vào công trình thủy lợi được quy định trong Luật Tài nguyên nước 2012, Luật Thủy lợi 2017 vào trong 01 Giấy phép môi trường để cho phép doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân được phép xả chất thải ra môi trường, quản lý chất thải, nhập khẩu phế liệu từ nước ngoài làm nguyên liệu sản xuất theo quy định của pháp luật.
Để thực hiện việc kiểm soát ô nhiễm, trong giai đoạn vừa qua việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, giám sát các nguồn thải từ xa đã được đẩy mạnh và triển khai thực hiện đồng bộ trên phạm vi cả nước. Hiện nay, cả nước đã xây dựng và vận hành 1.298 trạm quan trắc (gồm 280 trạm quan trắc môi trường xung quanh và 1018 trạm quan trắc phát thải tự động, liên tục); đã tổ chức thực hiện truyền số liệu từ doanh nghiệp về Sở TN&MT và từ Sở TN&MT về Bộ TN&MT thông qua phần mềm Quản lý số liệu quan trắc môi trường tự động, liên tục (EnviSoft). Đây là phần mềm do Tổng cục Môi trường xây dựng, phát triển và đã chuyển giao cho 63 địa phương trên toàn quốc.
Các số liệu quan trắc gồm 04 nhóm chính: (1) Quan trắc nước thải của DN; (2) Quan trắc khí thải của DN; (3) Quan trắc chất lượng môi trường không khí; (4) Quan trắc nước mặt.
Triển lãm cũng trưng bày một số giải pháp, thiết bị đang phục vụ đắc lực cho công tác kiểm soát ô nhiễm môi trường cho doanh nghiệp ở nước ta như: hệ thống quan trắc khí thải tự động, hệ thống quan trắc nước thải tự động, hệ thống giám sát chất lượng không khí xung quanh.
* Chủ đề xử lý chất thải
Các vấn đề về xử lý chất thải rắn, xử lý nước thải là những thách thức đặt ra đối với công tác BVMT nước ta.
Để giải quyết vấn đề này, bảo đảm hài hòa phát triển kinh tế – xã hội với bảo vệ môi trường, Chính phủ đã đề ra chính sách đẩy mạnh áp dụng các công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường, đồng xử lý, xử lý kết hợp với thu hồi năng lượng cho hoạt động chôn lấp chất thải, từng bước hạn chế chôn lấp trực tiếp chất thải rắn sinh hoạt; thúc đẩy tái sử dụng nước thải.
Từng bước góp phần thực hiện chủ trương này, Triển lãm trưng bày thấy mô hình lò đốt rác phát điện và mô hình công nghệ oxy hóa nâng cao linh động trong xử lý nước thải sinh hoạt công nghiệp .
* Chủ đề sản phẩm thân thiện môi trường, phát triển nền kinh tế tuần hoàn
Hiện nay, phát triển kinh tế theo hướng sinh thái, tuần hoàn, tăng trưởng xanh, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng bền vững đang là xu hướng chủ đạo của các nước trên thế giới hiện nay, trong đó có Việt Nam.
Việc thúc đẩy phát triển và ứng dụng các mô hình kinh tế tuần hoàn trong suốt vòng đời sản phẩm từ thiết kế, sản xuất, phân phối, tiêu dùng đến quản lý chất thải; không tạo ra tác động tiêu cực đối với môi trường đang được nhiều doanh nghiệp, tổ chức thực hiện, trưng bày sản phẩm tại triển lãm.
Nhiều sản phẩm thân thiện với môi trường như túi vải, túi rác tự phân hủy sinh học, ống hút tre bằng tra, cốc, ly, túi bằng giấy đã được nghiên cứu, phát triển và đưa vào thị trường như ống hút giấy đối với sản phẩm sữa đã mang lại những lợi ích lớn đối với môi trường.
Bên cạnh đó, việc tăng cường giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế, thu gom và xử lý chất thải nhựa là một trong những chính sách, chủ trương lớn của Nhà nước đặt ra để bảo vệ môi trường. Hiện nay, có nhiều sản phẩm tiêu dùng được tái chế từ chất thải đã được sản xuất, tiêu thụ trên thị trường như các sản phẩm nhựa tái chế từ chất thải cao su, từ chất thải nhự như tấm gạch, sản phẩm đồng hồ, chậu rửa;…
Vẻ đẹp thiên nhiên, giá trị đa dạng sinh học cao với sự phong phú, đa dạng về hệ sinh thái, các loài động thực vật, nguồn ghen ở Việt Nam. Song hiện nay, các hành vi buôn bán và tiêu thụ sản phẩm từ hổ và động vật hoang dã là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng suy thoái loài và trái với quy định của pháp luật. Để góp phần nâng cao nhận thức, góp phần bảo vệ các loài động vật hoang dã ở nước ta nói riêng, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường nói chung, hiện nay đã có các mẫu sản phẩm dược liệu thay thế các sản phẩm từ động vật hoang dã tiêu biểu như một số sản phẩm của Viện Dược liệu trưng bày tại Triển lãm.
Gian triển lãm về những thành tựu trong lĩnh vực môi trường trong thời gian qua góp phần chuyển tải thông điệp về nêu cao ý thức, trách nhiệm và hành động để bảo đảm “Hài hòa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, hướng tới nền kinh tế tuần hoàn, phát triển bền vững”, vì một Việt Nam xanh hơn, đẹp hơn.
Theo:vea.gov.vn