Theo khuyến nghị từ Báo cáo Sức sống hành tinh 2024 (LPR), để duy trì và tăng cường quần thể loài, chức năng hệ sinh thái và đóng góp của thiên nhiên cho con người, và để giúp đảm bảo sự ổn định của khí hậu và sự thịnh vượng cho tất cả mọi người, chúng ta cần các hành động bảo tồn đáp ứng được quy mô của thách thức.
Báo cáo Sức sống Hành tinh được Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (WWF), Hiệp hội Động vật học London (ZSL) thực hiện 2 năm một lần. Báo cáo giới thiệu một cách tổng quan, toàn diện về hiện trạng của thế giới tự nhiên, thông qua các Chỉ số Sức sống hành tinh (LPI) – theo dõi xu hướng về sự phong phú của động vật hoang dã trên toàn cầu.
Chỉ số Sức sống Hành tinh 2024 (LPI) và các chỉ số khác từ Báo cáo đã cho thấy suy giảm thiên nhiên đang là một xu hướng không thể phủ nhận trên toàn thế giới. Nhng nỗ lực bảo tồn các loài và hệ sinh thái hiện nay vẫn chưa theo kịp những áp lực không ngừng nghỉ ở các trung tâm của sự suy giảm.
Để ngăn chặn và đảo ngược sự mất mát của thiên nhiên, cần có những thay đổi cơ bản trong xã hội và nền kinh tế toàn cầu để giải quyết những áp lực này. Đồng thời, các nỗ lực này cũng đòi hỏi những cách tiếp cận mới đối với bảo tồn, bao gồm nhận thức rằng chăm sóc thiên nhiên không phải là tùy chọn mà là một nỗ lực không thể thiếu để đảm bảo hạnh phúc và cuộc sống của con người.
Cải thiện cách tiếp cận với bảo tồn
Theo truyền thống, công tác bảo tồn thường tp trung vào việc bảo vệ các loài và môi trường sống bị đe dọa. Những nỗ lực này trong thời gian qua đã đạt được nhiều thành công. Mặc dù có sự suy giảm chung đáng báo động về quần thể loài được thể hiện trong LPI, dữ liệu cũng bao gồm nhiều quần thể đã ổn định hoặc tăng lên nhờ các nỗ lực bảo tồn. Các khu vực được bảo vệ và bảo tồn đã làm chậm tốc độ tuyệt chủng của động vật có vú, chim và lưỡng cư khoảng 20–29%. Bên cạnh đó, mộtphân tích gần đây cho thấy các hành động bảo tồn đã có tác động tích cực đối với hệ sinh thái. Nhưng chỉ những kết quả riêng lẻ và xu hướng làm chậm sự suy giảm của thiên nhiên là không đủ.
Những nỗ lực bảo tồn đơn thuần, không bao gồm việc đảm bảo quyền, nhu cầu và giá trị ca con người, sẽ khó thành công về lâu dài. Ngày càng có nhiều sự công nhận về tầm quan trọng của hoạt động bảo tồn lấy con người làm trung tâm và do địa phương lãnh đạo, tôn trọng quyền của con người, chấp nhận các giá trị và quan điểm văn hóa đa dạng và đảm bảo lợi ích được chia sẻ công bằng. Nhà sinh thái học người Anh Georgina Mace mô tả quá trình chuyển đổi này là một loạt các thay đổi từ “thiên nhiên vì chính nó” (bảo vệ thiên nhiên hoang dã) sang “thiên nhiên bất chấp con người” (giảm ô nhiễm và khai thác quá mức), “thiên nhiên vì con người” (duy trì các dịch vụ hệ sinh thái) và “thiên nhiên và con người” (quản lý các hệ thống xã hội – sinh thái).
Để nâng cao công tác bảo tồn thiên nhiên, việc chú trọng người bản địa và cộng đồng địa phương là một cách tiếp cận quan trọng. (Ảnh: LPR)
Nâng cao hiệu quả và mở rộng khu vực bảo tồn
Có gần 300.000 khu bảo tồn được chỉ định trên toàn cầu, bao phủ 16% diện tích đất liền và 8% diện tích đại dương, bao gồm các khu bảo tồn thiên nhiên nghiêm ngặt, vườn quốc gia, khu bảo tồn động vật hoang dã và các khu vực sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên.
Mặc dù đã mở rộng đáng kể trong những năm gần đây, các khu vực đưc bảo vệ không đại diện cho sự đa dạng sinh thái trên Trái đất. Sự phân bố của các khu bảo tồn không đồng đều và phạm vi bảo vệ tổng thể không đủ để đảm bảo những gì con người được hưởng từ thiên nhiên.
Nếu chỉ chỉ định một khu vực được bảo vệ, điều đó không đảm bảo rằng thiên nhiên sẽ được bảo vệ. Nhiều khu vực vẫn dễ bị đe dọa dai dẳng và không có khả năng đảm bảo quản lý hiệu quả. Trên thực tế, một số khu vực chỉ được bảo vệ hạn chế. Ngoài ra, tốc độ mất bảo vệ hợp pháp đối với các khu vực được bảo vệ trên đất liền và biển đã được thành lập đã tăng tốc trong thế kỷ 21, với 247 triệu ha bị mất trên toàn cầu, tương đương với 8% các khu vực được bảo vệ hiện tại.
Mô hình OECM
Ở một số nơi, việc chỉ đảm bảo hiệu quả các khu bảo tồn chính thức không phải cách tiếp cận tốt nhất để bảo tồn hệ sinh thái và đa dạng sinh học, đó là lý do tại sao Khung Đa dạng sinh học toàn cầu (GBF) đề cập các biện pháp bảo tồn theo khu vực ngoài khu bảo tồn, hay OECM. Khung OECM là một cách tính toán các hoạt động trên đất tư nhân, cộng đồng và nhà nước mang lại lợi ích bảo tồn lâu dài, ngay cả khi bảo tồn đa dạng sinh học có thể không phải là mục tiêu chính.
Các khu OECM có thể bao gồm các khu đất dành riêng trong hệ thống nông nghiệp hoặc rừng được quản lý, lưu vực nước được bảo tồn, các vùng biển do đa phưng quản lý và các địa điểm linh thiêng.
OECM có tiềm năng bảo tồn các hệ sinh thái và quần thể loài và duy trì chức năng và dịch vụ của hệ sinh thái trong khi cung cấp các mục đích sử dụng có hiệu quả khác, đảm bảo rằng các nỗ lực bảo tồn vừa hiệu quả vừa bao trùm.
Hiện tại, trên thế giới có 856 OECM được công nhận và báo cáo tại 10 quốc gia và có tiềm năng để OECM đóng góp ngày càng tăng vào công tác bảo tồn đa dạng sinh học trong khi hỗ trợ sinh kế và các hoạt động văn hóa của cộng đồng địa phương. Toàn bộ lợi ích và chi phí liên quan sẽ phụ thuộc vào các chính sách và quy định chặt chẽ cần được xác định rõ hơn, nhấn mạnh nhu cầu đánh giá liên tục để tối ưu hóa sự đóng góp của chúng vào các mục tiêu bảo tồn toàn cầu.
Dựa vào cộng đồng bản địa
Phần lớn đa dạng sinh học nằm trong lãnh thổ của người dân bản địa và cộng đồng địa phương, những người đã quản lý bền vững trong nhiều thập kỷ. Khi bị gạt ra ngoài lề, các khu bảo tồn không chỉ có thể gây ra tác hại xã hội mà còn làm suy yếu khả năng tồn tại lâu dài của các mục tiêu đa dạng sinh học. Ngược lại, các phương pháp bảo tồn công bằng và toàn diện, thúc đẩy quyền và vai trò của Người dân bản địa và cộng đồng địa phương, và trao quyền quản lý môi trường cho họ thường dẫn đến bảo tồn đa dạng sinh học hiệu quả và lâu dài.
Sự ủng hộ chính thức và sự công nhận các quyền và lãnh thổ của người dân bản địa và cộng đồng địa phương có thể là một trong những cách hiệu quả nhất để bảo tồn đa dạng sinh học ở quy mô lớn. Các phân tích gần đây chỉ ra 1/4 diện tích đất toàn cầu theo truyền thống do Người dân bản địa sở hữu, quản lý, sử dụng và/hoặc chiếm giữ, bao gồm khoảng 35% diện tích chính thức nằm trong các khu bảo tồn và 35% diện tích đất liền còn nguyên vẹn. Trong nhiều trường hợp, người dân bản địa và cộng đồng địa phương đã quản lý bền vững các loài và hệ sinh thái trong thời gian dài. Đồng thời, những kết quả sinh thái và xã hội tích cực đã được ghi nhận khi người dân bản địa và cộng đồng địa phương lãnh đạo hoặc tham gia vào các nỗ lực quản lý và bảo tồn ti nguyên thiên nhiên.
Các giá trị bản địa thường được đặc trưng bởi sự thiếu phân chia giữa các khái niệm về thiên nhiên và văn hóa, góp phần vào việc quản lý bền vững các loài hoang dã và thuần hóa, thường đan xen các hệ thống quản lý này với nhau trong cùng một cảnh quan và cảnh quan biển. Bên cạnh đó, mối quan hệ lâu đời sâu sắc giữa con người và thiên nhiên cũng là một phần quan trọng. Dựa trên quan điểm này, Peru, Ecuador và Bolivia đã quyết định xác định quyền hợp pháp cho núi và sông, giúp tăng hiệu quả các nỗ lực bảo tồn thiên nhiên.
Trích nguồn monre.gov.vn